Mặt tối của truyền giáo Vinh Sơn

0
1278

John P. Prager, C.M.

Ơn gọi Vinh Sơn bản chất là truyền giáo.[i] Tính xác thật của lời tuyên bố này không hệ tại dành cho một số người trong chúng ta giảng đại phúc giáo xứ hoặc đi đến các vùng đất nước ngoài. Những tác vụ cụ thể đó phát sinh từ chính tinh thần truyền giáo mà thánh Vinh Sơn đã sống, đã hít thở và chia sẻ với cộng đoàn của ngài. Ở đây, có một cái gì đó nền tảng hơn là hệ tại ở công việc. Chúng ta là những nhà truyền giáo để rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, vì lời kêu gọi bước theo Chúa Giêsu, luôn đòi hỏi một lời đáp trả truyền giáo.

Truyền thống của chúng ta đã coi trọng lý tưởng truyền giáo trong hơn bốn thế kỷ qua. Nó đã được định chế trong các luật lệ và tài liệu của chúng ta. Các vị thánh và các bậc anh hùng trong cộng đoàn, những người được đề nghị cho chúng ta như là những khuôn mẫu, thì đã từng là những nhà truyền giáo.

Tuy nhiên, việc duy trì tinh thần truyền giáo của thánh Vinh Sơn thường là một cuộc đấu tranh. Sự căng thẳng liên miên đó chỉ ra một thực tế thường được đề cập khi đi qua, nhưng hiếm khi được khám phá ở bất kỳ chiều sâu nào – ơn gọi truyền giáo là khó khăn. Có lẽ chúng ta lý tưởng hóa mục tiêu và quên đi những vấn đề bẩm sinh liên quan đến tiến trình trở thành nhà truyền giáo! Có thể hay không khi chúng ta cho rằng, thiện chí của những người đến phục vụ người nghèo là đủ để sản sinh ra những nhà truyền giáo tốt lành?

Điều này chỉ có thể trừ khi chúng ta đề cập đến thực tế của kinh nghiệm truyền giáo mà yếu tố của đoàn sủng được coi như nền tảng. Trong bài viết này tôi muốn đưa ra một vài suy tư đơn sơ về truyền giáo Vinh Sơn và cụ thể là mặt tối của nó.

1. Ơn gọi truyền giáo Vinh Sơn: theo Chúa Giêsu ở giữa những người bị ruồng bỏ

Khi Chúa Giêsu nói “hãy đến mà xem” với các thành viên của gia đình Vinh Sơn, Ngài làm điều đó từ ngoại vi của xã hội. Ngài mời gọi chúng ta đồng hành cùng Ngài vào thế giới của những người nghèo và khốn khổ của trái đất. Ngài đưa ra cho chúng ta sự thách đố để trở nên những người anh em, chị em với những người đã bị nghiền nát bởi tính hệ thống và sự loại bỏ trong cuộc diễu hành của thế giới hiện đại hướng đến sự tiến bộ.

Theo Chúa Giêsu là truyền giáo, vì điều đó có nghĩa là rời khỏi chỗ ở của chúng ta ở vị trí trung tâm xã hội và đi vào một nơi khác với những người bị ruồng bỏ về kinh tế và xã hội.[ii] Đó là sự tự do lựa chọn của việc làm cho thế giới của người nghèo trở thành thế giới của chúng ta. Chúng ta vượt qua ranh giới chủng tộc, giai cấp, văn hóa và địa vị để sống Tin Mừng với những người bị bỏ rơi nhất. Nhà truyền giáo tìm cách yêu thương nơi vùng đất xa lạ bằng hiện thân là một sứ giả của lòng thương xót của Thiên Chúa, giữa những người không được tỏ lòng trắc ẩn.[iii]

Những gì được hình dung ở đây không chỉ là một bài tập trí tuệ cho phép chúng ta nghĩ mình là nhà truyền giáo trong khi vẫn giữ khoảng cách của chúng ta với người nghèo. Nó cũng không phải là một số công việc chúng ta làm cho người nghèo, trong khi rút lui về một thế giới khác vào ban đêm. Thay vào đó là sự vượt qua triệt những gì làm cho người nghèo trở nên cuộc sống của chúng ta chứ phải là một thứ nghề nghiệp của chúng ta.

Ba điều đặc trưng cho ơn gọi truyền giáo:[iv]

Tham gia vào[v]

Thánh Louise đã từng phê bình một nhóm chị em vì đã từ chối chấp nhận những khó khăn mà người nghèo phải chịu đựng hàng ngày.[vi] Bà biết rằng chúng ta có nguy cơ trở thành khách du lịch ở vùng đất của người nghèo nếu chúng ta không nhận vào mình bất cứ điều gì thuộc về lối sống của họ.

Bước vào thế giới của người nghèo đồng nghĩa với việc bỏ lại phía sau rất nhiều điều chúng ta đã biết trong thế giới phong phú của mình. Điều đó có nghĩa là tự do lựa chọn để sống trong sự giới hạn mà người nghèo đã không chọn lựa. Chúng ta có thể nói những lời khả tín về việc đứng về phía người nghèo khi đang giải trí ở những hòn đảo tương đối xa xỉ không?

Quan trọng hơn, điều gì xảy ra với một nhà truyền giáo không chịu từ bỏ sự thoải mái? Thánh Vinh Sơn chỉ ra rằng, nếu chúng ta không sống đơn sơ, chúng ta có thể nói lời tạm biệt với người nghèo.[vii] Ý ngài muốn nói rằng, nếu chúng ta để sự gắn bó với lối sống quen thuộc của chúng ta cách ly chúng ta khỏi những nhu cầu và mối quan tâm của người nghèo, chúng ta sẽ không bao giờ trở thành những nhà truyền giáo.

Có lẽ, đúng là chúng ta sẽ không bao giờ nghèo giống như người nghèo. Tuy nhiên, không phải chúng ta phải thuộc tầng lớp trung lưu như tầng lớp trung lưu. Nếu chúng ta thành thật muốn dựng lều với các nạn nhân, chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ một số sự an toàn của chúng ta.

Hội nhập văn hóa[viii]

Nếu như một nhà truyền giáo du hành tới chỉ một vài vùng địa lý, thì hành trình đến với người nghèo là một bước nhảy vọt qua một sự chia rẽ lớn. Những thực tế khác chiếm ưu thế và các giá trị khác giữ ảnh hưởng. Ngôn ngữ có thể hoặc không giống nhau, nhưng bối cảnh mới thay đổi ý nghĩa của ngôn từ. Nói tóm lại, nhà truyền giáo bước vào một nền văn hóa mới.[ix]

Chúng ta đến với người nghèo bằng kinh nghiệm, giá trị và mối quan tâm của chính mình. Tuy nhiên, thế giới trông khác với bề chìm của lịch sử. Trở thành nhà truyền giáo có nghĩa là bước vào môi trường mới này với thái độ cởi mở và tôn trọng. Sự phán xét phải bị đình chỉ cho đến khi một người có khả năng thấm nhuần những ý nghĩa đích thực bị ẩn giấu trong sự diễn đạt của dân chúng. Hội nhập văn hóa cho thấy sự nhạy cảm với một thế giới quan xa lạ và sẵn sàng đối thoại với nó để tìm hiểu.

Lịch sử truyền giáo nước ngoài cho thấy nhiều mẫu gương về các mục tử đã cố gắng áp đặt chân lý của họ cho dân chúng. Quan niệm sai lầm rằng chúng ta biết những gì tốt nhất hoặc chỉ có duy nhất một con đường đích thực đến với Chúa, quan niệm đó vẫn có thể hiện diện trong sứ vụ của chúng ta với người nghèo. Nó vẫn thường được nghe trong các cụm từ như “mang Chúa Kitô đến cho người nghèo.” Mặt khác, thánh Vinh Sơn đã nhắc nhở các kẻ theo ngài rằng rằng “tôn giáo thực sự được tìm thấy giữa những người nghèo.”[x] Cha muốn các nhà truyền giáo của mình nhận thức được rằng Chúa nói và hành động trong một bối cảnh khác ở đó.

Tân Phúc Âm hóa[xi]

Chúa Giêsu, nhà truyền giáo của Chúa Cha, đã đến để truyền giáo cho người nghèo. Ngài biết tận mắt “tin vịt” đã hủy hoại cuộc sống của dân chúng. Bằng lời nói và hành động, Ngài tìm mọi cách để rao giảng tình yêu của Chúa khi đối mặt với sự dữ to lớn.

Nếu truyền giáo cho người nghèo thực sự là “Tin Mừng”, thì khái niệm rao giảng Tin Mừng phải bao gồm nhưng cũng vượt ra ngoài việc huấn giáo. Truyền giáo không phải là cố gắng truyền đạt giáo lý bao nhiêu có thể mà là cởi mở với sự hiện diện của vương quốc của Thiên Chúa. Đó là quá trình người ta trở nên nhạy cảm và có khả năng hợp tác với tình yêu tự do của Thiên Chúa.[xii]

Tân Phúc Âm hóa không chỉ đơn giản là cập nhật các kỹ năng mục vụ. Đó là một sự chuyển đổi cấu trúc nhằm tìm kiếm những khả năng mới để truyền giáo trong trạng huống thay đổi của thế giới hiện đại. Nó không phải là mới trong ý nghĩa tẩy chay cái cũ. Tân Phúc Hóa bảo tồn truyền thống của cộng đoàn Kitô hữu và sứ mạng của Chúa Giêsu. Nó bắt đầu, tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại.

Đây không phải là nơi để phát triển tất cả các thử nghiệm cho tác vụ của chúng ta. Tuy nhiên, một số yếu tố có thể được bao gồm trong việc Tân Phúc Âm hóa sẽ là: một tác vụ có nhiều hơn một người của việc đồng hành và ít hơn một người của việc chỉ đạo;[xiii] một phong cách mục vụ tạo điều kiện cho sự tham gia của giáo dân;[xiv] một lựa chọn cho người nghèo;[xv] quan tâm đến thực tế xã hội, chính trị và kinh tế;[xvi] sự phát triển của các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ;[xvii] học cách làm thần học và lắng nghe Lời Chúa từ quan điểm của dân chúng.[xviii]

2. Mặt tối của truyền giáo

Bước theo Đức Giêsu truyền giáo là một rủi ro lớn. Hội nhập văn hóa, Tham gia vào và Tân Phúc Âm hóa đòi hỏi phải vứt bỏ nhiều thứ quen thuộc để tìm kiếm những điều mới mẻ. Kinh nghiệm này, trong khi nó có thể là con đường dẫn đến sự cứu rỗi, cũng là một con đường dễ gây tổn thương cách đau đớn. Một nhà tâm lý học có lẽ có thể giải thích động lực bên trong liên quan đến tất cả các chuyển đổi này. Ở đây, tôi ưa thích chỉ đơn giản là mô tả kinh nghiệm.[xix]

Khi việc phải từ bỏ khỏi các kiểu sống quen thuộc diễn ra và các giới hạn đáng tin cậy mang lại sự ổn định mất dần, sự bất an toàn trở thành người bạn đồng hành quen thuộc của nhà truyền giáo. Yêu cầu buông bỏ quá khứ và ước muốn đồng thời bám lấy nó tạo ra một cuộc đấu tranh liên tục. Các kiểu cách cũ dường như không còn phù hợp nữa, và trạng huống mới xuất hiện thì không thể tiếp cận được. Có một cảm giác đáng lo ngại là không hòa hợp được với môi trường xung quanh.

Nghi ngờ và lộn xộn thường liên quan sự bất an như là một phần của kinh nghiệm truyền giáo. Một số điều này có liên quan đến sự không chắc chắn về thế giới mới mà người ta đã bước vào. Những gì đang xảy ra ở đây? Những điều đó có nghĩa là gì? Tại sao mọi thứ được thực hiện theo cách này? Đây là tất cả các câu hỏi phổ biến.

Ở một cấp độ khác, và theo một cách cấp bách hơn nhiều, những nghi ngờ và khó khăn cá nhân xuất hiện. Sự tự tin có thể bị lung lay nghiêm trọng khi những cách suy nghĩ và hành động ấp ủ bị đặt câu hỏi. Tôi thực sự có tác vụ ở đây? Tôi có khả năng làm việc này không? Tôi có nên cống hiến cuộc đời mình cho những người này không? Có phải tất cả đều đáng giá? Đôi khi những truy vấn này xuất hiện những câu hỏi cơ bản hơn như: tôi là ai? Làm thế nào để tôi tương quan với những người khác và với Thiên Chúa? Rất nhiều câu hỏi được đưa ra và rất ít khi nó được trả lời cách ngay lập tức.

Sợ hãi, giận dữ và cô đơn là ba cảm giác mà các nhà truyền giáo biết rất rõ. Mất phương hướng và mất an toàn tạo ra các phản ứng mạnh mẽ. Khi các cấu trúc nội tại và ngoại tại đã xác định cuộc sống trong quá khứ bị thay đổi, sự khó chịu và đau đớn sẽ luôn hiện diện.

Đôi khi có một lo lắng chung về việc đi vào phạm vi của những điều chưa biết. Vào những thời điểm khác, nỗi sợ hãi được tập trung nhiều hơn xung quanh những trải nghiệm và tình huống cụ thể. Tác động của mất mát tạo ra một cảm giác dễ bị tổn thương. Bỏ lại đằng sau những nơi chốn, sự vật, con người hay cách suy nghĩ và hành động, những nơi dường như một mỏ neo trong quá khứ, đặt nhà truyền giáo vào vị trí bấp bênh đối đầu với thế giới mà không có nhiều nguồn lợi.

Sự tức giận thường xuyên xâm nhập vào bức tranh cùng với nỗi sợ hãi. Một ngàn kích thích nhỏ và sự thất vọng liên tục của việc không thực sự hiểu biết có thể là điên cuồng. Những cuộc đối đầu lớn hay nhỏ tập trung vào cách đúng hay sai để làm nhiều thứ gây ra phản ứng tức giận. Đôi khi, nó bộc phát ra ngoài về phía dân chúng. Nó cũng có thể được hướng vào trong khi người ta trở nên bực tức với một dòng chảy kinh nghiệm không mong muốn liên tục. Ngay cả Chúa, lúc bấy giờ và sau đấy nhận được một vụ nổ giận dữ vì đã đặt chúng ta vào tình huống như thế.

Khi nhà truyền giáo rời khỏi một thế giới và bắt đầu quá trình đi vào một thế giới khác, sự cô đơn xuất hiện. Mặc dù được bao quanh bởi mọi người, sự hiện diện của họ không làm giảm bớt cảm giác bị cô lập. Trên thực tế, họ có thể làm tăng cảm giác rằng người ta là người ngoài cuộc. Những người bạn cũ không ở vị trí để cung cấp nhiều hỗ trợ vì họ ở xa hoặc không hiểu lắm về trải nghiệm này. Ngay cả Chúa dường như vắng mặt hoặc không lắng nghe.

Mặt tối của truyền giáo gây ra nhiều phản ứng. Không ai thích phải đối đầu với nó. Một sự rút lui nhanh chóng vào sự an toàn và sự bảo đảm luôn luôn là một cám dỗ mạnh mẽ. Một số từ bỏ dự án hoàn toàn. Những người khác cố gắng sống ở hai thế giới cùng một lúc, không bao giờ thực sự buông bỏ quá khứ. Một số chọn sự ẩn nấp trong sự từ chối. Hầu hết nâng cao sự đề phòng của họ, ít ra là trong một thời gian. Thật không may, không có câu trả lời nào trong số này là những cách đặc biệt hữu ích để tham gia vào truyền giáo. Chúng có thể mang đến một lối thoát khỏi kinh nghiệm và sự bảo vệ khỏi những cảm giác không vừa ý. Tuy nhiên, cuối cùng chúng dẫn chúng ta trở lại nơi chúng ta bắt đầu.

Có nhiều cách để di chuyển từ bóng tối vào ánh sáng. Trong phần tiếp theo tôi muốn đề cập đến một vài trong số những cách đó.

3. Hoán cải: đi từ bóng tối đến ánh sáng

Sự hoán cải của thánh Vinh Sơn là kinh nghiệm nghịch lý của ơn gọi Vinh Sơn. Ngài đã tìm thấy ơn cứu rỗi bằng cách rời bỏ thế giới của riêng mình và bước vào thế giới của những người nghèo.[xx] Ngài mang đến hy vọng rằng kinh nghiệm truyền giáo là con đường dẫn đến sự thánh thiện, niềm vui và bình an. Nếu chúng ta tập trung vào quá trình của ngài hơn là kết quả cuối cùng, sự hoán cải của thánh Vinh Sơn thậm chí còn sáng tỏ hơn. Giống như chúng ta, ngài phải đấu tranh với mặt tối của việc truyền giáo cho người nghèo. Ngài ngập ngừng trước những đòi hỏi. Sự cám dỗ liên tục của ngài là tìm kiếm sự thoải mái và an toàn của riêng mình. Nó đã chiếm hơn mười năm để cuối cùng ngài chọn lựa để đứng về phía người nghèo.[xxi]

Cuối cùng, thánh Vinh Sơn khám phá ra rằng, không có cách nào để theo Chúa Giêsu và thoát khỏi những đòi hỏi khó khăn của ơn gọi đó qua việc phục vụ người nghèo. Ngài đã phải tìm con đường xuyên qua những bóng tối. Đó tiếp tục là thách thức cho các nhà truyền giáo cho người nghèo ngày nay. Giống như Đấng sáng lập của chúng ta, chúng ta phải tìm kiếm các biện pháp thực tế mà cho phép chúng ta thao tập thông qua những khó khăn của truyền giáo. Tôi muốn đề xuất một vài thái độ và hành động có thể hữu ích:

Tự biết mình

Mỗi người đều mang một lịch sử cá nhân, điểm yếu và điểm mạnh đối với truyền giáo. Trong quá trình sống, chúng ta phát triển một cấu trúc tâm lý cơ bản định hướng cách chúng ta liên quan đến trải nghiệm cuộc sống và những người khác. Ý thức về tôi là ai và tôi phản ứng như thế nào, đặc biệt là trong những tình huống căng thẳng, là điều tất yếu để tham gia vào việc truyền giáo cho người nghèo. Một khái niệm rõ ràng về sự tự vệ, khuynh hướng và nội lực của một người cho phép người đó giữ phương hướng và thực hiện các bước tích cực trong khi tránh những cạm bẫy nghiêm trọng.

Bên cạnh một sự tự biết mình cách tổng quát, có một sự cần thiết là nhận thức được cách người ta phản ứng với tình huống cụ thể này. Không ai thích nhìn vào cảm giác xáo trộn, yếu đuối hay đau đớn. Tuy nhiên, nó trở nên không thể thực hiện các bước tích cực mà không thành thật thừa nhận và đối mặt với phần kinh nghiệm đó.

Có một hướng dẫn

Nói về đời sống tinh thần, Thomas Merton nói rằng thật ngu ngốc khi bước vào bóng tối một mình.[xxii] Điều đó cũng sẽ áp dụng cho cuộc sống truyền giáo. Có một giá trị khôn lường trong việc có sự tin tưởng vào sự khôn ngoan và kinh nghiệm của một người cố vấn giàu kinh nghiệm hoặc vị linh hướng. Thực tế đơn giản là có ai đó đi cùng và lắng nghe chúng ta thường đủ để cho phép chúng ta hiểu rõ tình huống. Hơn nữa, ý kiến ​​khách quan của một hướng dẫn viên có kinh nghiệm có thể khẳng định những hướng tích cực cũng như chỉ ra những con đường và sự đối kháng không lối thoát.

Cộng đoàn

Cộng đoàn tồn tại cho sứ vụ. Điều đó hóa ra là hơn một tiên đề thường lặp đi lặp lại khi người ta đắm chìm trong thế giới của người nghèo. Tầm nhìn chung, khuôn mẫu và sự hiện diện của những người khác đã cống hiến hết mình cho cùng một sứ vụ trở thành một hỗ trợ quan trọng. Các cấu trúc chính thức của cộng đoàn mang lại sự ổn định giữa sự thay đổi. Quan trọng hơn, vô số cách đơn giản mà các thành viên của cộng đoàn truyền thông sự quan tâm, chăm sóc và tin tưởng vào các trạng huống không mong muốn trong cuộc sống hàng ngày là những dấu hiệu hữu hình cho thấy một người không cô đơn trong thế giới mới này.

Bè bạn

Có thể nói rõ ràng rằng, hãy nhớ rằng tình bạn là một trải nghiệm không thể thay thế của con người. Ai cũng cần yêu và được yêu. Nhà truyền giáo không được miễn trừ điều này. Giữa quá trình chuyển đổi, buông bỏ và cô đơn, người ta cần biết rằng có những người quan tâm và chăm lo đến chúng ta. Người ta phải tin rằng bạn bè yêu thương chúng ta đủ để lắng nghe và cố gắng hiểu những trải nghiệm của chúng ta.

Điều quan trọng là giữ liên lạc với bạn bè, những người sẽ hỗ trợ. Lý tưởng sẽ là dành thời gian cho một chuyến thăm. Nhưng nếu khoảng cách hoặc yêu cầu của sứ vụ khiến điều đó trở nên bất khả thi, thì thư từ hoặc điện thoại là một cách khác để ở bên bạn bè.

Tạo không gian cá nhân

Sự căng thẳng liên tục của việc thích nghi, cố gắng để hiểu và thực hiện các thay đổi đòi hỏi một sự đảo ngược đáng kể về thời gian và năng lượng. Sau một thời gian, sự căng thẳng làm mất đi năng lực của một người. Một bước hợp lý là dành thời gian cá nhân để thư giãn. Sở thích, tập thể dục, những chuyến đi ngắn, viết nhật ký, đọc sách hoặc bất kỳ hoạt động nào khác mà người ta dùng để giải trí giúp giữ sự quân bình.

Tất cả các đề xuất trên là phương tiện được đón nhận khá tốt để xử lý bất kỳ chuyển đổi nào. Lời kêu gọi truyền giáo cũng là một ơn gọi Kitô giáo có sự phân nhánh thần học và linh đạo. Truyền thống Vinh Sơn cung cấp nhiều nguồn lực giá trị trong lĩnh vực này. Linh đạo Vinh Sơn là một linh đạo cho truyền giáo và hoạt động tông đồ.[xxiii] Hầu hết các đàm luận và thư từ của thánh Vinh Sơn đều dành cho những anh em chị em nào tham gia hoặc cố gắng duy trì việc truyền giáo cho người nghèo.[xxiv] Ở đây tôi chỉ muốn chỉ ra một vài nhận thức đã được chọn lọc từ truyền thống của chúng ta.

Một thái độ khiêm tốn và cởi mở

Sự cởi mở và khiêm tốn làm cho việc tham gia truyền giáo và sự hội nhập văn hóa trở nên khả dĩ. Nếu không có sự sẵn sàng chấp nhận những cách suy nghĩ và hành động mới, thì không có sự tiếp cận với thế giới của người nghèo. Phải mất một số nỗ lực để duy trì một tâm trí cởi mở và sẵn sàng học hỏi. Đó là lý do tại sao sự khiêm tốn đi đôi với sự cởi mở. Những người cảm thấy rằng họ đã có câu trả lời và rằng cách của họ là cách chính xác thì không bao giờ đồng hành với người nghèo được. Sự khiêm tốn cho phép một người lắng nghe mọi người và kinh nghiệm của họ, bởi vì nó tạo ra một thái độ coi trọng người khác.

Một thái độ khổ chế và linh hoạt

Một số người không bao giờ trở thành nhà truyền giáo vì họ không muốn buông bỏ bất cứ điều gì. Họ đặt ra rất nhiều điều kiện trước khi họ có thể rời đi hoặc mang theo rất nhiều hành lý khi họ đi, vì tất cả các mục đích thực tế, họ trở nên bất động. Sự hãm mình truyền giáo là sự sẵn sàng buông bỏ sự an toàn để theo Chúa Giêsu. Chính tinh thần hy sinh cho phép người ta linh hoạt để sát cánh với người nghèo.

Đơn giản và rõ ràng của động cơ

Động lực chính cho truyền giáo Vinh Sơn là bước theo Chúa Giêsu, truyền giáo cho người nghèo. Khi một người bắt gặp thực tế của sứ vụ đó, đặc biệt là các yếu tố đen tối hơn, các lựa chọn thay thế khác xuất hiện trong tâm trí. Sự đơn sơ về mặt tinh thần gìn giữ lý do nguyên thủy trong việc tập trung cho truyền giáo. Khi cảm giác khó chịu và trải nghiệm tiêu cực làm tăng sức hấp dẫn của việc đi theo con đường khác, thì sự minh bạch hoặc trung thực đơn giản giúp chúng ta đưa ra lựa chọn ấy phù hợp với lựa chọn truyền giáo.[xxv]

Người nghèo mang nhiều gánh nặng. Mỗi ngày họ tiếp xúc với những thể chế lạnh lùng và những người khó tính. Chỉ có sự dịu dàng mở ra cánh cửa đến thế giới của họ. Nếu các nhà truyền giáo không hành động với sự nhạy cảm, cánh cửa vẫn đóng chặt. Sự dịu dàng là thái độ mà chuyển thành những hành động như: nỗ lực tìm hiểu mối quan tâm của người nghèo; sẵn sàng đồng hành cùng dân chúng cách vô điều kiện hay đòi hỏi; chấp nhận những điều không quen thuộc; lòng trắc ẩn cho sự yếu đuối.

Ngay cả các nhà truyền giáo nhu mì nhất cũng trải qua xung đột và giận dữ. Tinh thần của sự dịu dàng khiến người ta tìm ra những cách lành mạnh để đối phó với sự tức giận.

Nhiệt thành Tin Mừng  

Mặc dù nhà truyền giáo cần chú ý đến những phản ứng cá nhân và cần hỗ trợ, mục tiêu truyền giáo cũng phải được khắc ghi trong tâm trí. Người tham gia vào truyền giáo đặt tất cả tài năng, năng lượng, sự sáng tạo và thời gian của mình để phục vụ người nghèo và Nước Thiên Chúa. Nhà truyền giáo không chuyển trọng tâm từ nhu cầu cá nhân sang nhu cầu của người nghèo cuối cùng sẽ trở nên chán nản.

Nhiệt thành cho phép một người chấp nhận những thách thức của việc sống Tin Mừng trong những trạng huống mới. Nó khởi hứng người truyền giáo để tìm cách vượt qua các chướng ngại vật và về trạng thái ban đầu. Nó tạo ra một mong muốn truyền giáo và được truyền giáo bởi những người nghèo.

Cầu nguyện

Cảm hứng chính cho truyền giáo Vinh Sơn là mối quan hệ sâu sắc với Chúa Kitô truyền giáo, người được gặp gỡ giữa những người nghèo và bị bỏ rơi nhất. Vì sự hiện diện của Chúa Giêsu không phải là hiển nhiên và có phẩm chất bí tích về điều đó, nên chỉ có đức tin cho phép người ta nhìn xa hơn sự xấu xí vốn là một phần của cuộc sống của người nghèo. Niềm tin đó thực sự có thể được kiểm chứng bởi khía cạnh không hài lòng của truyền giáo.

Điều đó đặc biệt đúng nếu chúng ta mong đợi tìm thấy Thiên Chúa trong vẻ đẹp, sức mạnh hoặc những trải nghiệm ấm áp, tràn đầy bình an. “Chúa Giêsu hiện diện ở đâu giữa tất cả sự nghèo đói và đau khổ này?” không phải là một câu hỏi hiếm gặp. Đây là một trong những lý do tại sao cầu nguyện rất quan trọng. Nó làm cho chúng ta nhạy cảm với sự hiện diện của Thiên Chúa trong những người nghèo.

Lời kêu gọi truyền giáo là một lời mời gọi để chia sẻ cuộc sống của Chúa Kitô với người nghèo. Cầu nguyện là phương tiện để lắng nghe những đòi hỏi cụ thể của ơn gọi đó. Trong cầu nguyện, Chúa Kitô đặt câu hỏi hoặc khẳng định câu trả lời truyền giáo của chúng ta. Ngài cũng cho chúng ta một cơ hội để trút bầu tâm sự về những kinh nghiệm truyền giáo hàng ngày. Không cầu nguyện, truyền giáo mất trung tâm của mình trong Chúa Giêsu và nhà truyền giáo tự cuộn mình lại trong ánh sáng cá nhân như một hướng dẫn. Đó là một cách làm gây thảm họa cho chính mình và cho người nghèo

Kết luận

Cái nhìn sâu sắc cơ bản của thánh Vinh Sơn có thể được nhắc lại cách tự tin rằng nếu bạn cởi mở cuộc sống của mình để cho một Thiên Chúa nghèo bước vào không gian và sẽ dẫn đưa bạn đến sự cứu rỗi. Không ai, chắc chắn không phải là vị thánh, sẽ nói rằng ơn gọi này là một con đường dễ dàng để đạt niềm vui và hạnh phúc. Mặt tối của truyền giáo là một thực tế không thể chối cãi. Nhưng, điều đó không gây ra sự bất mãn với sứ vụ hoặc miễn cưỡng chấp nhận gánh nặng của việc cởi mở cuộc sống của một người cho người nghèo.

Đây là giá phải trả của người môn đệ. Họ là những người Vinh Sơn tham gia vào sự chết và Phục sinh của Chúa. Đó là một thông điệp của hy vọng, đã cho phép các thành viên của Gia đình Vinh Sơn đối phó với mặt tối của truyền giáo và đi đến hạnh phúc lớn lao trong việc phục vụ người nghèo.

Manila 7/2020

Pt Phêrô Phạm Minh Triều, CM chuyển ngữ


[i] Các Nữ Tử Bác ái đưa ra tuyên bố này một cách rõ ràng trong khi diễn giải Số 2 trong sắc lệnh Ad Gentes của Công đồng Vatican II vào khoản 2:10 trong Hiến pháp của họ, ý tưởng này được áp dụng cho các ngành khác của Gia đình Vinh Sơn.

[ii] Ibañez, JM. “Identidad de la Misión Vicenciana” in Misión Vicenciana y Evangelización de los Hombres de Hoy, (Salamanca: CEME, 1987), p. 181-212.; Bastiaensen, A. “Breves Apuntes en torno al Carisma y la Espiritualidad Vicencianos y Nuestra Conciencia Misionera”, trong CLAPVI No. 68 (1990) p. 229-237.

[iii] Sobrino J. The Principle of Mercy: Taking the Crucified people from the Cross, (NY: Orbis, 1994).

[iv] Phần lớn các phần sau đây đã được lấy cảm hứng từ các tác phẩm gần đây về Truyền giáo học. Mặc dù những nghiên cứu này hướng đến các nhà truyền giáo nước ngoài, nhưng nhiều khái niệm đối với tôi dường như được áp dụng trong truyền giáo Vinh Sơn cho người nghèo: Bellagamba A. Mission and Ministry in the Global Church, (NY: Orbis, 1992); Bosch D. Transforming Mission: Paradigm Shifts in Mission Theology, (NY: Orbis, 1991); Burrows W. Redemption and Dialogue: ReadingRedemptoris Missio” and “Dialogue & Proclamation”, (NY: Orbis, 1993); Comblin J. The Meaning of Mission, (NY: Orbis, 1977); Flanagan P, ed. A New Missionary Era, (NY: Orbis, 1979); Jenkinson, W. & H. O’Sullivan, eds. Trends in Mission, (NY: Orbis, 1991); Santos A. Teología Sistemática de la Misión, (Estella: Verbo Divino, 1991); Scherer, J. & S. Bevans, eds. New Directions in Mission & Evangelization 2: Theological Foundations, (NY: Orbis, 1994); Senior, D. & C. Stuhlmueller. The Biblical Foundations for Mission (NY: Orbis, 1984).

[v] Xem thêm cho mục tham gia vào: Bonk J. Missions and Money: Affluence a Western Missionary Problem, (NY: Orbis, 1991); Cussianovich A. Religious Life and the Poor, (NY: Orbis, 1979); Maccise C. Espiritualidad de la Nueva Evangelización, (Mexico: CTR, 1991).

[vi] Sullivan L., ed. & trans. Spiritual Writings of Louise de Marillac, (Brooklyn: New City, 1991), p. 391.

[vii] Coste P., ed. St. Vincent de Paul: Correspondance, Entretiens, Documents, (Paris: 1925), XI, 79. Tác phẩm này được trích dẫn là SV.

[viii] Xem thêm mục Hội nhập văn hóa: Arbuckle A. Earthing the Gospel: An Inculturation Handbook for Pastoral Workers, (NY: Orbis, 1990); Shorter A. Evangelization and Culture, (London: Chapman, 1994); Shorter A., Toward a Theology of Inculturation, (NY: Orbis, 1992).

[ix] Văn hóa ở đây có nghĩa là “một tập hợp các biểu tượng, câu chuyện, huyền thoại và chuẩn mực để thực hiện định hướng một xã hội hoặc nhóm về cách nhận thức, ảnh hưởng và hành xử đến thế giới mà xã hội hay nhóm đang sống.” Được trích dẫn trong Shorter, A., Toward a Theology of Inculturation, p. 4.

[x] SV. XII, 170-171 và 200-201.

[xi] Boff L. New Evangelization, (NY: Orbis, 1992); Bravo C. “Las Tentaciones de la Nueva Evangelización,” trong Christus (Mexico), No. 643 (1991), p. 24-33; Trigo, P. “Criterios de la Nueva Evangelización,” trong Christus (Mexico), No. 643 (1991), p. 14-23.

[xii] Dường như với tôi rằng đây là định nghĩa về truyền giáo cách rộng hơn trong Evangelii Nuntiandi của Đức giáo hoàng Phaolô VI.

[xiii] Xem thêm phần tác vụ như sự đồng hành: Boff C. Comó Trabajar con el Pueblo, (Bogotá: Codecal, 1992); Sofield, L. & C. Juliano, Collaborative Ministry, (Notre Dame: Ave Maria Press, 1987).

[xiv] Xem thêm phần tham gia của người giáo dân: Doohan L. The Lay-Centered Church, (Minneapolis: Winston,1984); Kinsler FR. Ministry by the People, (NY: Orbis, 1983); Rademacher W. Lay Ministry: A Theological, Spiritual & Pastoral Handbook, (NY: Crossroad, 1991); Whitehead, JD & EE. The Emerging Laity: Returning  Leadership to the Community of Faith, (NY: Doubleday, 1988).

[xv] Xem thêm phần chọn lựa về phía người nghèo: Gutiérrez, G. The Power of the Poor in History, (NY: Orbis, 1981); González-Carvajal, L. Con los Pobres Contra la Pobreza, (Madrid: 1994); O’Brien J. Theology and the Option for the Poor, (Collegeville: Liturgical Press, 1992); Pope S. “Proper and Improper Partiality and the Preferential Option for the Poor”, trong Theological Studies (1993), p. 242-271; Sobrino, J. The True Church and the Poor, (NY: Orbis; 1984).

[xvi] Xem thêm phần các cộng đoàn Kitô hữu cơ bản: Azevedo, M. Basic Ecclesial Communities in Brazil, (NY: Orbis, 1987); Nickoloff, J. “Church of the Poor: The Eccleslology of Gustavo Gutierrez”, trong Theological Studies (1993), p. 512-535; Torres, S. & J. Eagleson, eds. The Challenge of Basic Christian Communities, (NY: Orbis, 1981).

[xvii] Xem thêm phần các chiều kích xã hội của đức tin: Casaldáliga, P. & JM Vigil. Political Holiness: A Spirituality of Liberation. (NY: Orbis, 1994); Dorr, D. Option for the Poor, (NY: Orbis, 1988);  Haughey, J. The Faith That Does Justice, (NY: Paulist, 1977); Holland, J. & P. Henriot. Social Analysis: Linking Faith and Justice, (NY: Orbis, 1986); Sobrino, J. Spirituality of Liberation: Toward Political Holiness, (NY: Orbis, 1987).

[xviii] Xem thêm phần cách đọc bình dân về Kinh thánh và Thần học: Bevans, S., Models of Contextual Theology, (NY: Orbis, 1991); Boff, L. & C. Boff. Introducing Liberation Theology, (NY: Orbis, 1986);  Mesters, C., Defenseless Flower: A New Reading of the Bible, (NY: Orbis, 1984); Schreiter, R. Constructing Local Theologies, (NY: Orbis, 1988).

[xix] Một giới thiệu cho chủ đề này là: Bridges, W. Transitions: Making Sense of Life’s Changes, (Reading, Mass: Addison-Wesley, 1980).

[xx] Tôi đã không đồng ý với Bremond và những người cho rằng thánh Vinh Sơn đã đến với người nghèo vì ngài là một vị thánh. Dường như với tôi rằng điều ngược lại thì đúng hơn.

[xxi] Một số trích dẫn về sự hoán cải: Corera, J. “La noche oscura de Vicente de Paúl,” in Diez Estudios Vicencianos, (Salamanca: CEME, 1983), p. 13-40; Ibáñez, J.M., Vicente de Paúl y los Pobres de su Tiempo, (Salamanca, 1976), p. 207-228; Renouard, J. and others, “La Experiencia Espiritual del Señor Vicente y la Nuestra,” in Vicente de Paúl y la Evangelización Rural, (Salamanca: CEME, 1976), p. 125-168.

[xxii] Merton, T. New Seeds of Contemplation, (NY: New Directions, 1961), p. 194-196; also Contemplative Prayer, (NY: Doubleday/Image, 1969), p. 36-37 & 92-93.

[xxiii] Xem thêm phần linh đạo Vinh Sơn: Coluccia, G., Espiritualidad Vicenciana, Espiritualidad de la Acción, (Salamanca, CEME, 1979);  Ibáñez, JM., La Fe Verificada en el Amor, (Madrid: Paulinas, 1993); Ibáñez, JM., Vicente de Paul: Realismo y Encarnación, (Salamanca: Sigueme, 1982); Maloney, R., The Way of Vincent de Paul: A Contemporary Spirituality in the Service of the Poor, (NY: New City, 1992); McKenna T., Praying with Vincent de Paul, (Winona, MN.: St. Mary’s Press, 1994); Prager, JP., “Reflections on the Renewal of Vincentian Spirituality,” Vincentiana (1981), p. 366-383.

[xxiv] Điều này cho thấy sự khó khăn trong việc biến linh đạo Vinh Sơn thành một nghiên cứu về lịch sử của các ý tưởng. Mặc dù nó có thể thuận tiện cho mục đích học tập, nhưng nó không công bằng với trải nghiệm Vinh Sơn. Ơn gọi Vinh Sơn và linh đạo Vinh Sơn hỗ trợ điều ấy, đã không nảy sinh từ một ý tưởng mà thánh Vinh Sơn nhận được từ những người khác và sau đó sửa đổi. Có vẻ đúng hơn khi nói rằng Vinh sơn đã trải nghiệm Thiên Chúa trong những người nghèo và sử dụng ý tưởng của dân chúng để hiểu và nói rõ kinh nghiệm.

Trong thuật ngữ linh đạo Vinh Sơn đương đại, tôi nghĩ điều đó có nghĩa là cập nhật các chủ đề của Đấng sáng lập là không đủ. Nhiệm vụ thì hơn là để phát triển các cách tìm Chúa trong người nghèo ngày nay và duy trì sứ vụ.

[xxv] Lời khấn, đặc biệt là lời khấn kiên định, có cùng nhân tố căn bản trong truyền thống Vinh Sơn. Chúng là một cách để duy trì sự trung thành với sứ vụ. Qua lời khấn, người ta phải ghi nhớ lựa chọn cơ bản của Vinh Sơn là phục vụ người nghèo.