Một Vài Nét So Sánh Thú Vị Giữa Chân Phước Durando Với Thánh Vinh Sơn

Đăng ngày: 06/12/2019

Nếu thánh Vinh Sơn Phaolô là “mẫu gương cho các nhà truyền giáo, thì Đức Kitô là “khuôn mẫu” của “mẫu gương Vinh Sơn”. Vinh Sơn đã nên thánh bằng con đường bước theo mẫu gương Đức Kitô – Đấng rao giảng Tin Mừng cho người nghèo[1]. Cũng thế, đã có không ít các học trò của ngài trở nên những vị thánh hay những bậc chân phước đáng kính trong lòng Giáo hội bằng việc bắt chước mẫu gương Đức Kitô với tinh thần Vinh Sơn. Chân phước Marco Antonio Durando là một trong số đó. Có người còn cho rằng Durando là thánh Vinh Sơn thứ hai hay thánh Vinh Sơn nước Ý. Khi cha Durando qua đời, cha Giovanni Rinaldi, bề trên nhà Paix de Chieri nói: “Chúng ta đã mất đi một thánh Vinh Sơn thứ hai.”[2] Bởi thế, trong bài viết này, tôi sẽ trình bày vài nét so sánh thú vị giữa chân phước Durando với thánh Vinh Sơn.

Vinh Sơn Phaolô (1581-1660) xuất thân trong gia đình nông dân nghèo tại nước Pháp vào thế kỷ XVI – XVII. Thời kỳ mà việc đi tu được xem như một cơ hội đổi đời. Trong khi Marco Antonio Durando (1801-1880) sinh ra trong một gia đình thế giá và khá giả tại Italia ở thế kỷ XIX, giai đoạn trào lưu tục hóa và trào lưu chống giáo sĩ nổ ra rầm rộ. Mục đích đi tu của Vinh Sơn ban đầu chỉ mong tìm kiếm công danh sự nghiệp. Con đường tiến thân của Vinh Sơn diễn ra rất nhanh và trôi chảy. Khi mới 19 tuổi, người ta đã phải gọi ngài là linh mục. Còn với Durando, có lẽ một phần chịu ảnh hưởng bởi người mẹ đạo đức, nên 14 tuổi, Durando đã vào Chủng viện giáo phận Mondovi. Động cơ đi tu ban đầu của Durando xem ra tích cực. Động cơ này được thăng tiến hơn khi ngài có ước ao đi truyền giáo. Durando đã gia nhập Tu Hội Truyền Giáo và trở thành linh mục năm 23 tuổi.

Vinh Sơn thứ hai bắt đầu xuất hiện ở nước Ý. Với những nét tương đồng sau, chúng ta có thể nói Marco Antonio Durando là bản sao của Vinh Sơn Phaolô.

Trước hết, bản sao về nhân cách, Durando hội tụ những nhân cách tốt đẹp về mọi phương diện, một con người trong sáng, nề nếp, khéo léo trong công việc, kính cẩn và khiêm nhường.[3] Nếu cha Vinh Sơn được xem là người thông minh và có nhiều sáng kiến, thì cha Durando cũng không kém. Durando khi làm việc tại Turin có rất nhiều người đến để hỏi ý kiến, để được những lời khuyên hữu ích từ cha.[4] Cha Vinh Sơn có đời sống nội tâm tốt, ngài từng làm linh hướng cho nhiều tâm hồn bối rối: Marguerite de Silly (Bà Gondi), Louise de Marillac một phụ nữ bất hạnh trong đời sống gia đình. Vinh Sơn còn là thành viên của Ủy ban lương tâm, linh hướng cho Hoàng hậu Anne d’ Autriche. Cha Durando cũng thế, công việc cố vấn và linh hướng của cha ở Turin thì to lớn và được đánh giá cao. Tổng Giám Mục, Vua Carlo Alberto và những người lỗi lạc đã đến chọn cha làm người cố vấn và hướng dẫn.[5] Cha Vinh Sơn đã cầu xin Chúa và cố gắng luyện tập nhân đức dịu hiền, dẹp bớt tính nóng sẵn có của ngài. Kết quả là Vinh Sơn đã thành công “Nhờ ơn Chúa, cùng với quyết tâm dẹp bỏ những cơn nóng giận tự nhiên, tôi đã phần nào chữa trị được khuynh hướng xấu của tôi.”[6] Với cha Durando, mặc dù giữ những chức vụ cao (năm 1830, cha Durando làm bề trên nhà của Tu hội tại Turin; năm 1837 cha giữ chức vụ Giám tỉnh Tỉnh Dòng Haute – Italia), bàn làm việc của cha luôn quá tải các thư từ phải gửi đi, thế nhưng cha luôn giữ bộ mặt vui tươi, dịu hiền.[7]

Thứ đến, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy nét tương đồng giữa phong cách hoạt động, cách thức tổ chức công việc giữa hai cha đáng kính của chúng ta. Đấng sáng lập Tu Hội Truyền Giáo với trăm công nghìn việc nhưng lại rất thành công, bởi ngài biết cách sắp xếp và tổ chức khéo léo công việc cần làm. Làm bác ái thì tốt, nhưng tốt hơn phải làm với lòng mến và có tổ chức. Cha Vinh Sơn sau khi nhận ra dấu chỉ Chúa quan phòng, ngài đi đầu trong việc tổ chức các hội “Bác ái, bắt đầu từ Châtillon (1617) sau đó lan rộng cả nước Pháp và trên nhiều quốc gia khác. Về phía cha Durando, khi mới 29 tuổi đã làm bề trên nhà. Mặc dù còn trẻ, nhưng cha Durando đã rất thành công trong việc sắp xếp, tổ chức nơi ăn chốn ở cho các cha trong cộng đoàn Turin cũng như các cha thừa sai khác. Những khó khăn làm đảo lộn việc tổ chức đời sống dòng tu trong thời hoàng đế Nepoléon đã không làm khó được một con người khéo tổ chức như cha Durando.[8] Những gì mà hội “Bác ái làm vào thời cha Vinh Sơn ở nước Pháp thế kỷ XVII, thì hội “Lòng thương xótdo cha Durando sáng lập cũng được làm ở Turin vào thế kỷ XIX. Các hội “Lòng thương xótlà các trung tâm tư nhân thật sự về việc trợ cấp xã hội. Nơi đây, không những người nghèo tìm được bát cháo nóng vào mùa đông, một tủ áo quần, sự chăm sóc cơ bản về thuốc men, mà họ còn tìm được việc làm, tìm được tình huynh đệ và lòng bác ái Kitô giáo.[9]

 Là nhà hoạt động, cha Vinh Sơn tổ chức và tham gia các cuộc đại phúc, canh tân hàng giáo sĩ, tổ chức tĩnh tâm cho các tiến chức, các buổi hội thảo thứ ba hàng tuần… Còn với cha Durando, trong thời gian giữ chức vụ Giám tỉnh, cha tiếp tục duy trì và phát triển các hoạt động với nhịp độ mạnh: các kỳ giảng đại phúc, các kỳ tĩnh tâm, huấn luyện các tập sinh và sinh viên ở Turin, Gênes, và ở Monferrato. Huấn luyện hàng giáo sĩ ở Học viện Alberoni de Plaisance, Học viện Tu hội Truyền giáo Sarzana, Học viện Savone.[10]

Không chỉ là Đấng sáng lập hiệp hội Bác ái (AIC) và Tu hội Truyền giáo (1625), mà cha Vinh Sơn còn đồng sáng lập Tu hội Nữ tử Bác ái với Louise de Marillac (1633). Về điểm này, chúng ta cũng bắt gặp nơi cha Durando điểm tương đồng thú vị. Cha Durando là người khai mở ở Turin các hiệp hội Lòng thương xót (1836). Cùng với Luigia Boriotti, cha Durando thành lập Dòng Nữ tử sự Thương khó Chúa Giêsu Nazaret (gọi tắt là các dì Nazaret). Đây là công trình tâm huyết của cha. Bởi lẽ, cha yêu mến các ơn gọi tận hiến cho Chúa, trong khi bối cảnh pháp lý của Hội thánh lại ngăn cấm những người sinh ra ngoài hôn nhân tôn giáo không được bước vào đời sống thánh hiến. Điều này có nghĩa là những đứa trẻ tuyệt vời trong các viện mồ côi muốn dâng mình cho Chúa, muốn phục vụ Giáo hội lại bị khước từ. Cha đã để Chúa quan phòng hướng dẫn, và sau nhiều lần gửi các em vào các Dòng tu khác mà không dòng nào chấp nhận. Cuối cùng, Dòng Nữ tử sự Thương khó Chúa Giêsu Nazaret ra đời. Các dì Nazaret làm việc hiệu quả nơi các bệnh viện, các tư gia. Các dì chăm sóc bệnh nhân, những người nghèo khó cả về thể xác lẫn phần rỗi tâm hồn họ. Ngoài việc tông đồ trên, cha Durando còn để lại cho các dì việc tôn thờ sự thương khó Đức Giêsu.

Điểm cuối cùng tôi muốn nói về nét tương đồng giữa cha Vinh Sơn và cha Durando là tinh thần truyền giáo. Dường như, qua sử liệu, chúng ta khó bắt gặp một Vinh Sơn đi truyền giáo ở các vùng xa xôi hải ngoại. Nhưng nếu nhìn vào việc cha Vinh Sơn thành lập Tu hội Truyền giáo, nhìn vào những việc cha làm và các chương trình cha đưa ra cho Tu hội, chúng ta sẽ thán phục trước một tinh thần truyền giáo vĩ đại. Tinh thần truyền giáo của cha Vinh Sơn được lan rộng khi cha thường xuyên hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo nơi các học trò của mình và gửi họ đi khắp nơi trên thế giới: “Hãy ra đi, hỡi các nhà truyền giáo, hãy ra đi. Thế nào, anh em vẫn còn ở đây ư? Hãy xem các linh hồn khốn khổ đang chờ đợi anh em; sự cứu độ của họ phụ thuộc vào sự rao giảng và dạy giáo lý của anh em!”[11] Cũng thế, chúng ta khám phá ra tinh thần truyền giáo nơi Durando từ khi còn là chủng sinh. Rời chủng viện giáo phận, Durando bước chân vào Tu hội Truyền giáo để thực hiện ước mơ của mình. Durando trở thành một linh mục truyền giáo và cha tiếp tục ước muốn đi truyền giáo bên Trung Quốc, song cha nhận ra đó không phải là thánh ý Chúa. Cha vâng phục ý Chúa và tâm hồn cha bình an. Mặc dù không được đi truyền giáo hải ngoại, cha Durando vẫn có những hoạt động giúp cho công cuộc truyền giáo: Cha đã vận động người thân giúp công cuộc truyền bá đức tin. Trong việc điều khiển tỉnh dòng, cha Durando ưu tiên tạo thuận lợi cho các công việc truyền giáo nước ngoài. Cha chấp nhận yêu cầu của các thành viên ước mong được đi truyền giáo nước ngoài, và động viên họ mạnh dạn xin đi truyền giáo. Năm 1854, cha Durando cộng tác vào chủng viện để lo cho các ơn gọi truyền giáo.

Nhìn chung lại, chúng ta có hai vĩ nhân, một vị thánh của nước Pháp thế kỷ XVI, một vị chân phước của nước Ý thế kỷ XIX. Cả hai sinh không cùng ngày, nhưng chết cùng tuổi (79 tuổi). Chỉ một vài khác biệt, nhưng lại có khá nhiều điểm tương đồng giữa chân phước Durando và thánh Vinh Sơn: nhân cách,  phong cách hoạt động, cách thức tổ chức công việc và cả tinh thần truyền giáo. Tôi thiết nghĩ, đã có nhiều người nhận ra những điểm tương đồng này và rồi họ đã xem chân phước Durando như là thánh Vinh Sơn thứ hai. Tôi tự hỏi, khi nào chúng ta có thánh Vinh Sơn thứ ba, thứ tư hay nhiều thánh Vinh Sơn hơn nữa?

Giuse Nguyễn Đức Duy


[1] x.HP,1.

[2] Các Thánh Và Các Chân Phước Trong Gia Đình Vinh Sơn,154.

[3] x.Ibid,139.

[4] x.Ibid,153.

[5] x.Ibid,140.

[6] x.Abelly III, XII,177, 245.

[7] x.Các Thánh Và Các Chân Phước Trong Gia Đình Vinh Sơn,154.

[8] x.Ibid,140.

[9] x.Ibid,142.

[10] x.Ibid,146.

[11] SV. XI,134.