Thư Mùa Chay 2022 Của Cha Bề Trên Tổng Quyền Tu Hội Truyền Giáo, Tomaž Mavrič

0
1255

Rome, Mùa Chay 2022

Gửi đến tất cả thành viên của Tu hội Truyền giáo

 

Nhà Thần Bí Bác Ái Trong Thế Kỷ XXI Và Xa Hơn

Anh em thân mến của tôi,

Nguyện xin ân sủng và bình an của Đức Giêsu luôn ở với chúng ta!

Sau sáu năm, nhiệm kỳ của tôi sắp kết thúc. Với lá thư Mùa Chay này, tôi muốn tóm tắt những suy tư về Mùa Vọng và Mùa Chay trong sáu năm qua, bắt đầu bằng thông điệp đầu tiên của tôi gửi đến anh em nhân ngày Lễ Thánh Vinh Sơn Phaolô năm 2016. Trong lá thư đó, tôi đã chia sẻ một số nội dung về chủ đề “Nhà Thần bí Bác ái” được ban tặng cho Đấng sáng lập của chúng ta. Thông qua chủ đề này, tôi đã cố gắng khám phá cho chính mình và đồng thời chia sẻ với anh em những điều mà tôi đã háo hức mong được hiểu sâu hơn; đó là, ý nghĩa của việc trở thành một “Nhà Thần bí Bác ái”.

Cuộc tìm kiếm trong sáu năm qua chưa đạt được kết quả như mong muốn; đúng hơn, đó chỉ là một khởi đầu nhỏ và một lời mời gọi để tiếp tục đắm chìm mình trong sự phong phú và chiều sâu của ý nghĩa trở thành một “Nhà Thần bí Bác ái”. Nó mời gọi chúng ta tiếp tục tìm kiếm sự kết hợp sâu xa nhất có thể với Chúa Giêsu, để trở nên “giống như người tu sĩ dòng Chartreux và như các tông đồ hoạt động, ” [1] “một người chiêm niệm trong hoạt động và một tông đồ trong cầu nguyện.” [2]

Khi đọc lá thư Mùa Chay năm nay, và khi xem qua những suy tư được chia sẻ trong sáu năm qua, chúng ta được mời gọi chọn một điểm hoặc một lĩnh vực mà chúng ta cảm thấy Đức Giêsu đang kêu gọi chúng ta đáp lại một cách dứt khoát và triệt để hơn, nơi chúng ta cảm thấy đặc biệt cần đến ân sủng và lòng thương xót của Ngài để hoàn thành giấc mơ của Ngài dành cho chúng ta.

Nhà thần học Karl Rahner, vào cuối thế kỷ 20, đã tuyên bố những lời tiên tri này: “Các Ki-tô hữu của thế kỷ 21 sẽ trở thành những nhà thần bí hoặc sẽ không”. Tại sao chúng ta có thể gọi thánh Vinh Sơn Phaolô là một “Nhà Thần bí Bác ái”?

Tất cả chúng ta đều biết cha Vinh Sơn là một người hoạt động, vì vậy chúng ta có thể ngạc nhiên khi nghe thấy ngài còn được gọi là một nhà thần bí. Nhưng trên thực tế, chính kinh nghiệm thần bí của cha về Thiên Chúa Ba Ngôi và đặc biệt là mầu nhiệm Nhập thể đã trở thành nguồn gốc cho mọi hoạt động của cha vì những người nghèo khổ. Giuseppe Toscani, CM, đã kết hợp chủ nghĩa thần bí và hoạt động và đi vào trọng tâm của vấn đề khi gọi cha là “Nhà Thần bí Bác ái”. Cha Vinh Sơn đã sống trong một thế kỷ của các nhà thần bí, nhưng cha nổi bật với tư cách là Nhà Thần bí Bác ái.

Là nhà thần bí ngụ ý kinh nghiệm, trải nghiệm về Mầu Nhiệm. Đối với cha Vinh Sơn, điều đó có nghĩa là một trải nghiệm sâu sắc về Mầu nhiệm Tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể là trọng tâm của cuộc đời ngài. Kinh nghiệm về tình yêu toàn diện của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với thế giới và sự ôm ấp vô điều kiện của Ngôi Lời Nhập Thể đối với mỗi con người đã định hình, cấu thành, và nung nấu tình yêu của cha đối với thế giới và mọi người ở trong đó, đặc biệt là những anh chị em đang cần. Cha nhìn thế giới bằng con mắt của Abba và của Đức Giê-su và ôm lấy mọi người bằng tình yêu vô điều kiện, sự nồng ấm và sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Chủ nghĩa thần bí là nguồn gốc cho hoạt động tông đồ của cha Vinh Sơn. Mầu nhiệm về tình yêu Thiên Chúa và Mầu nhiệm về người nghèo là hai cực tình yêu năng động của cha. Nhưng Con Đường của cha Vinh Sơn có một khía cạnh thứ ba, đó là thời gian. Thời gian là cách thức mà qua đó, Chúa Quan phòng đã làm cho cha được biết đến. Cha đã hành động theo thời gian của Thiên Chúa, chứ không phải theo mình. “Đừng giẫm lên gót chân của Chúa Quan Phòng.”

Một khía cạnh khác của thời gian đối với cha Vinh Sơn là sự hiện diện của Thiên Chúa ở đây và bây giờ – “Chúa ở đây!” Chúa ở đây đúng lúc. Thiên Chúa ở đây nơi những con người, nơi các biến cố, nơi hoàn cảnh, và nơi người nghèo. Chúa nói với chúng ta bây giờ trong và qua họ.

Đối với cha Vinh Sơn, cả chiều ngang và chiều dọc của tâm linh đều không thể thiếu. Cha đã nhận ra tình yêu với Chúa Kitô và tình yêu với người nghèo là không thể tách rời. Một lần nữa, cha kêu gọi các môn sinh của mình không chỉ hành động mà còn phải cầu nguyện nữa, và không chỉ cầu nguyện mà còn phải hành động. Đứng trước ý kiến phản đối: “Nhưng có quá nhiều việc phải làm, quá nhiều trách nhiệm trong nhà, quá nhiều sứ vụ ở miền quê và thành phố nhỏ; công việc ở khắp mọi nơi; Vậy chúng ta có phải bỏ tất cả những điều đó để chỉ nghĩ đến Chúa không? ” Cha đã trả lời một cách mạnh mẽ:

Không, nhưng chúng ta phải thánh hóa những hoạt động đó bằng cách tìm kiếm Chúa ở nơi chúng, và hãy làm điều đó để tìm thấy Ngài nơi chúng hơn là để thấy chúng đã hoàn thành. Trên tất cả, Chúa của chúng ta muốn rằng chúng ta tìm kiếm vinh quang của Ngài, vương quốc của Ngài, và công lý của Ngài, và để làm điều này, chúng ta hãy đặt mối quan tâm hàng đầu của mình là đời sống nội tâm, đức tin, sự tin cậy, tình yêu thương, các bài thực hành tâm linh, suy niệm, sự xấu hổ, khiêm nhường, công việc và những phiền muộn của chúng ta, trước tôn nhan Chúa, Thiên Chúa Tối Cao của chúng ta… Một khi chúng ta có cơ sở để tìm kiếm sự vinh quang của Chúa theo cách này, chúng ta có thể yên tâm rằng phần còn lại sẽ theo sau. [3]

Anh em có thể mô tả cha Vinh Sơn là một nhà thần bí có “nhãn quan kép”. Có nghĩa là, cha đã (nhìn thấy) kinh nghiệm cùng một Thiên Chúa qua hai lăng kính khác nhau, cả hai cùng một lúc. Một lăng kính là lời cầu nguyện; cái còn lại là người nghèo cũng như thế giới mà họ đang sống. Mỗi góc nhìn đều ảnh hưởng đến góc nhìn khác, góc nhìn này đào sâu và làm sắc nét nhận thức của góc nhìn kia. Cha Vinh Sơn đã “nhìn thấy” (và cảm nhận) tình yêu của Chúa qua cả hai khía cạnh này cùng một lúc và đã hành động mạnh mẽ để đáp lại những gì cha đang thấy.

Để duy trì việc suy tư, lập kế hoạch và hành động đúng hướng của chúng ta với tư cách là thành viên của Tu Hội Truyền giáo, với tư cách là những nhà truyền giáo theo Chúa Giêsu Ki-tô, Đấng rao giảng Tin Mừng cho người nghèo trong bước đi của thánh Vinh Sơn, để giúp chúng ta suy ngẫm về ngài như một nhà Thần bí Bác ái, chúng ta có Hiến Pháp Luật Chung, là bản tóm tắt và tổng hợp tất cả linh đạo của chúng ta và là nền tảng cho cuộc sống của chúng ta với tư cách là thành viên của Tu Hội Truyền giáo.

Hỗ trợ chúng ta trong việc suy ngẫm về ý nghĩa của việc coi cha Vinh Sơn là nhà Thần bí Bác ái, các bài viết và buổi hội thảo của cha chắc chắn sẽ đồng hành với chúng ta, cũng như các bài viết và buổi hội thảo của các chân phước và các thánh trong Gia đình Vinh Sơn. Tuy nhiên, các nguồn cảm hứng chính cho chúng ta, ngoài Thánh Kinh, là Luật Chung và Hiến Pháp, được soạn bởi chính thánh Vinh Sơn. Chính cha Vinh Sơn, ở cuối Luật Chung, yêu cầu mỗi người trong chúng ta đọc chúng ba tháng một lần. Giờ đây, chúng ta đã có bản Hiến Pháp, cũng như Luật Chung.

Một trong những mầu nhiệm trung tâm của linh đạo thánh Vinh Sơn Phao-lô là mầu nhiệm Nhập Thể. Ngài đã để lại cho chúng ta những dòng suy nghĩ sau đây về mầu nhiệm này:

Chúng ta nhất định phải tôn kính một cách đặc biệt mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh và Nhập Thể, những mầu nhiệm vượt quá ngôn từ của chúng ta. Do đó, chúng ta nên cố gắng thực hiện điều này một cách trung thành nhất và, nếu có thể, bằng mọi cách, nhưng đặc biệt là theo ba cách sau: (1) thường xuyên tôn vinh các mầu nhiệm này bằng lời cầu nguyện của đức tin và sự tôn thờ, xuất phát từ trái tim sâu thẳm của chúng ta; (2) dâng những lời cầu nguyện và việc thiện mỗi ngày để tôn vinh các mầu nhiệm này và trên hết, cử hành chúng với phẩm cách đặc biệt, và lòng sùng kính cá nhân lớn nhất có thể; (3) cố gắng không ngừng, bằng sự giảng dạy và gương sáng của chúng ta, để người khác biết những mầu nhiệm này và tôn vinh và thờ phượng chúng. [4]

Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm trung tâm khác trong linh đạo của thánh Vinh Sơn. Trong Hiến Pháp của mình, chúng ta tìm thấy những lời sau đây: “Là chứng nhân và sứ giả về tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta phải thể hiện lòng tôn vinh và sùng kính đặc biệt đối với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể ”. [5] Đức Giê-su giúp chúng ta hiểu về mối tương quan giữa Ba Ngôi, sự liên kết nội tại giữa các Ngôi vị, và ảnh hưởng của Ba Ngôi trên mỗi cá nhân cũng như trên toàn xã hội. Chúa Ba Ngôi là hình mẫu lý tưởng của các “tương quan”!

Trụ cột thứ ba trong linh đạo của thánh Vinh Sơn là Bí tích Thánh Thể. Khi viết về các trụ cột trong linh đạo và về mầu nhiệm Nhập Thể và Chúa Ba Ngôi, thánh Vinh Sơn gợi ý rằng, anh em có thể tìm thấy tất cả những điều đó nơi Bí tích Thánh Thể. Ngài viết,

Không có cách nào tốt hơn có thể để tôn vinh những mầu nhiệm này [Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể] hơn là việc sùng kính và sử dụng đúng đắn Thánh Thể, bí tích và hy tế. Như nó vốn có, tất cả những mầu nhiệm khác của đức tin, và tự nó, dẫn những người rước lễ tới thái độ tôn trọng hoặc cử hành Thánh lễ cách đàng hoàng, đến sự thánh thiện và cuối cùng đến vinh quang đời đời. Bằng cách này, Thiên Chúa, Duy Nhất và Ba Ngôi, và Ngôi Lời Nhập Thể, được tôn vinh cách lớn lao nhất. Vì những lý do này, không có gì quan trọng hơn đối với chúng ta ngoài việc thể hiện sự tôn kính xứng đáng đối với bí tích và sự hy sinh này. Chúng ta cũng phải cố gắng hết sức để mọi người khác cũng tôn vinh và sùng kính như vậy. Chúng ta nên cố gắng, với tất cả khả năng của mình, để đạt được điều này bằng cách ngăn chặn, trong chừng mực có thể, bất kỳ sự thiếu tôn kính nào trong lời nói hoặc hành động, và bằng cách cẩn thận dạy cho người khác những gì nên tin về sự vĩ đại của mầu nhiệm và cách thức để họ thể hiện lòng tôn vinh. [6]

Sự hiểu biết này mà anh em tìm thấy nơi Bí tích Thánh Thể cùng với tất cả những lời tiên tri và đầy cảm hứng khác, đến từ kinh nghiệm sống sâu sắc nhất của cha Vinh Sơn, “Tình yêu có sức sáng tạo đến vô cùng.” [7] Đây là một trong những cụm từ được biết đến nhiều nhất của cha Vinh Sơn, và cha đã dùng những từ cụ thể này khi nói về Bí tích Thánh Thể, cố gắng giải thích Bí tích Thánh Thể là gì, Bí tích Thánh Thể làm gì, chúng ta tìm thấy những gì nơi Bí tích Thánh Thể. Đây cũng là cách thức cụ thể để Đức Giê-su luôn ở bên chúng ta, đồng hành và ở lại với chúng ta cho đến tận thế. Tình yêu của Ngài, sáng tạo đến vô tận, tiếp tục làm chúng ta ngạc nhiên ngày nay, ở đây và bây giờ!

Trụ cột thứ tư là Đức Trinh Nữ Maria .

  • Chúng ta cũng nên thể hiện lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức Maria, Mẹ của Chúa Kitô và của Giáo hội. Theo lời của thánh Vinh Sơn, hơn tất cả các tín hữu khác, Mẹ đã thấm nhuần ý nghĩa và sống theo lời dạy của Phúc Âm.
  • Chúng ta nên bày tỏ tình yêu của chúng ta đối với Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội bằng nhiều cách khác nhau, cử hành các lễ của Mẹ với lòng sùng kính và thường xuyên cầu nguyện với Mẹ, đặc biệt là lần chuỗi Mân Côi. Chúng ta nên phổ biến rộng rãi sứ điệp đặc biệt này được thể hiện qua việc chăm sóc đầy tình mẫu tử của Đức Maria bằng Ảnh Phép Lạ. [8]

Nguồn nước chính yếu mà từ đó thánh Vinh Sơn đã uống như là nhà Thần bí Bác ái, là cầu nguyện và chiêm niệm hàng ngày. Một trong những câu nói được trích dẫn nhiều nhất của thánh Vinh Sơn, từ một buổi hội thảo dành cho các thành viên của Tu Hội Truyền giáo, đã thể hiện thái độ của ngài một cách hùng hồn:

Hãy cho tôi một người cầu nguyện, và người ấy sẽ làm được bất cứ điều gì: người ấy có thể nói với thánh tông đồ rằng: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13). Tu hội Truyền giáo sẽ tồn tại miễn là trung thành với việc thực hành chiêm niệm bởi vì chiêm niệm giống như một thành lũy bất khả xâm phạm, sẽ bảo vệ nhà thừa sai trước mọi loại tấn công. [9]

Thánh Vinh Sơn đang nói về cầu nguyện và chiêm niệm hàng ngày, và ngài đảm bảo với những người bước theo mình rằng,

Tất cả chúng ta hãy thực sự cống hiến hết mình cho việc thực hành chiêm niệm, vì thông qua đó, tất cả những điều tốt đẹp sẽ đến với chúng ta. Nếu chúng ta kiên trì trong thiên chức của mình, đó là nhờ chiêm niệm; nếu chúng ta thành công trong công việc của mình, đó là nhờ chiêm niệm; nếu chúng ta không rơi vào tội lỗi, đó là nhờ chiêm niệm; nếu chúng ta tiếp tục làm bác ái, nếu chúng ta được cứu, tất cả điều đó là nhờ Chúa và chiêm niệm. Chỉ vì Thiên Chúa không từ chối điều gì trong chiêm niệm, vì vậy Ngài hầu như không ban điều gì nếu không có sự chiêm niệm. [10]

Linh hướng: Thánh Vinh Sơn thường nói về sự cần thiết của sự linh hướng. “Sự linh hướng rất hữu ích. Đó là dịp để nhận được lời khuyên trong lúc khó khăn, được khích lệ khi mệt mỏi, được ẩn náu trước cơn cám dỗ, được tiếp thêm sức mạnh trong lúc thất vọng; nói một cách dễ hiểu, đó là một nguồn hạnh phúc và an ủi, nếu người hướng dẫn thực sự nhân ái, khôn ngoan và giàu kinh nghiệm. ” [11]

Mục tiêu của việc nói chuyện với một người hướng dẫn tâm linh, được bày tỏ rõ ràng từ thời cha ông trong sa mạc, rất đơn giản: lòng trong sạch. Biết được điều đó, thánh Vinh Sơn đã đề nghị việc linh hướng ít nhất vài lần mỗi năm, [12] đặc biệt là trong những thời điểm tĩnh tâm hoặc mùa phụng vụ như Mùa Chay.

Bí tích Hòa giải: Thánh Vinh Sơn đã coi lòng thương xót là cốt lõi của Tin Mừng. Ngài mô tả nó là “… nhân đức cao đẹp, ‘là đặc điểm riêng biệt của Thiên Chúa.’” [13]

Hiến Pháp khuyến khích chúng ta lãnh nhận Bí tích Hòa giải thường xuyên “để chúng ta có thể đạt được sự hoán cải liên tục và tính xác thực của ơn gọi.” [14] Chính thánh Vinh Sơn nói với các anh em đã được phong chức phải lãnh nhận Bí tích Hòa giải một hoặc hai lần một tuần, và các anh em khác thì một lần một tuần. [15]

Chia sẻ đức tin: Hiến Pháp khuyến nghị, [16] thúc giục chúng ta thực thi điều đó, trong bối cảnh cầu nguyện, “chia sẻ với nhau, trong sự đối thoại huynh đệ, về kinh nghiệm thiêng liêng và tông đồ.” Hình thức để thực hiện điều này là tùy thuộc vào chúng ta, vào cộng đoàn mà chúng ta thuộc về. Thánh Vinh Sơn thích chia sẻ thẳng thắn và cụ thể. Ngài tuyên bố:

Đó là một thực hành tốt lành để đi vào các chi tiết trong những vấn đề nhỏ bé, khi sự khôn ngoan cho phép chúng ta thừa nhận chúng một cách công khai, vì lợi ích mà chúng ta thu được từ điều này, vượt qua sự tự mãn của chúng ta để bày tỏ điều mà lòng kiêu hãnh có thể muốn giấu kín. Chính thánh Augustinô đã công khai những tội lỗi thầm kín thời trẻ của mình, viết một cuốn sách về chúng để cả thế giới biết tất cả những sai lầm ngu xuẩn của ông và những hành vi ngỗ ngược của ông. Và chẳng phải thánh Phao-lô, vị Tông đồ vĩ đại đã được đưa lên tới tận trời xanh, đã thừa nhận rằng ông đã đàn áp Giáo hội, không phải là lợi khí mà Chúa đã dùng đó sao? Thánh nhân thậm chí còn viết ra nó bằng văn bản ngõ hầu cho đến tận cùng của thời gian, mọi người có thể biết rằng mình đã từng là một kẻ bách hại. [17]

Một nền tảng khác của linh đạo Vinh Sơn là Sự Quan Phòng. Thánh Vinh Sơn, tin tưởng hoàn toàn vào Sự Quan Phòng, đã trở thành Sự Quan Phòng cho người khác, cho người nghèo. “… Chúng ta hãy để điều đó cho sự hướng dẫn Quan Phòng khôn ngoan của Thiên Chúa. Tôi có một sự tận tâm đặc biệt khi theo dõi nó và kinh nghiệm đã cho tôi thấy rằng nó đã hoàn thành tốt mọi thứ trong Tu Hội, và những hành vi nhìn xa trông rộng của chúng ta đã cản trở điều đó”. [18]

Cầu nguyện là trung tâm của cuộc đời thánh Vinh Sơn và điều này đã làm cho ngài trở thành một nhà Thần bí Bác ái. Cầu nguyện có một sức mạnh biến đổi. Cầu nguyện là một trạng thái hiện hữu, một mối quan hệ liên tục với Chúa Giêsu. Tôi đang trò chuyện, lắng nghe và chia sẻ với Ai đó là “Tình yêu” của cuộc đời tôi và là người mà tôi hằng mong ước.

Hãy nghe lời tôi, hỡi anh em thân mến của tôi, hãy giữ lời tôi vì điều này, đó là một châm ngôn không thể sai lầm của Chúa Giê-su Ki-tô, mà tôi thường tuyên bố với anh em nhân danh Ngài, rằng, ngay khi trái tim tự làm rỗng nó, thì chính Thiên Chúa sẽ lấp đầy nó. Chúa ở lại và hành động trong đó; và mong muốn xấu hổ sẽ làm chúng ta trống rỗng về bản thân mình; đó là sự khiêm tốn, sự khiêm tốn thánh thiện. Vậy thì không phải chính chúng ta đang hành động mà là Chúa đang hành động trong chúng ta, và tất cả sẽ diễn ra tốt đẹp. [19]

Người bệnh và người cao tuổi: Thánh Vinh Sơn đã nói về vai trò của người bệnh trong một vài lần:

Nhưng đối với Tu hội – một Tu hội nhỏ bé – không nên tự cho mình có đặc quyền đối với thức ăn hay quần áo! Nhưng đối với người bệnh thì ngoại lệ. Ôi, những bệnh nhân tội nghiệp! Đối với họ, ngay cả những chén thánh trong Nhà thờ nếu cần cũng phải bán. Thiên Chúa đã ban cho tôi có được sự nhạy bén về vấn đề đó, và tôi cầu xin Ngài cũng ban tinh thần này cho Tu hội [20]

Bất cứ nơi nào chúng ta đến thăm người bệnh, trong hay ngoài cộng đoàn, chúng ta hãy nhìn họ như là Chúa Kitô chứ không chỉ đơn thuần là một con người, vì Chúa Ki-tô đã nói rằng, bất kỳ hành động phục vụ nào đối với một người như vậy là làm cho chính Ngài vậy. [21]

Thánh Vinh Sơn Phao-lô, khi trở thành một nhà “Thần bí Bác ái”, đã hiểu và sống mối tương quan với người bệnh và người già như Chúa Giêsu đã trình bày.

Ở phần đầu của bức thư này, tôi đã viết rằng việc tìm kiếm ý nghĩa của việc trở thành nhà Thần bí Bác ái không kết thúc ở đây bằng bất kỳ phương tiện nào; chúng ta hãy tiếp tục đắm chìm mình trong sự phong phú và sâu sắc nơi ý nghĩa của nó.

Một nền tảng khác đã làm cho thánh Vinh Sơn Phao-lô trở thành một nhà “Thần bí Bác ái” là năm nhân đức mà thể hiện rõ ràng nơi căn tính của một nhà truyền giáo: đơn sơ, khiêm nhường, hiền lành, hãm mình và nhiệt thành cho sự cứu rỗi của các linh hồn. Trưởng thành trong căn tính của chúng ta, phát triển để trở thành một nhà Thần bí Bác ái là một quá trình suốt đời.

Để không mất hy vọng trong cuộc hành hương này, chúng ta nhớ lại rằng chính Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta bước theo Ngài trên con đường ơn gọi của chúng ta. Ngài vẫn luôn ở với chúng ta, cũng như Đức Mẹ Ảnh Phép Lạ, thánh Vinh Sơn Phao-lô và tất cả các Thánh, Chân phước và Tôi tớ của Chúa trong Tu hội Nhỏ này. Xin tiếp tục cầu bầu cho chúng con.

Người anh em trong thánh Vinh Sơn,

Tomaž Mavrič, CM

Bề trên Tổng quyền Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn

BTT chuyển dịch

 

[1] Louis Abelly, The Life of the Venerable Servant of God Vincent de Paul, edited by John E. Rybolt, CM, translated by William Quinn, FSC, New York: New City Press, 1993, Book I, Chapter 22, page 124.

[2] Constitutions of the Congregation of the Mission, IV, 42.

[3] CCD XII, 112; conference 198, “Seeking the Kingdom of God,” Common Rules, Chapter II, Article 2, 21 February 1659. CCD refers to the series, Vincent de Paul, Correspondence, Conferences, Documents, translated and edited by Jacqueline Kilar, DC; and Marie Poole, DC; et al; annotated by John W. Carven, CM; New City Press, Brooklyn and Hyde Park, 1985-2014; future references to this work will use, as above, the initials, CCD, followed by the volume number, then the page number.

[4] CCD XIIIa, 454-455; document 117a, Common Rules of the Congregation of the Mission, (17 May 1658); Common Rules X, 2.

[5] Constitutions of the Congregation of the Mission, IV, 48.

[6] Common Rules X, 3; cf. op. citCCD XIIIa, 455.

[7] CCD XI, 131; conference 102, “Exhortation to a Dying Brother,” 1645.

[8] Constitution IV, 49.

[9] CCD XI, 76; conference 67, “Meditation.”

[10] CCD XI, 361; conference 168, “Repetition of Prayer,” 10 August 1657.

[11] CCD III, 603; letter 1192 to Sister Jeanne Lepeintre, 23 February 1650.

[12] Cf. Common Rules X, 11.

[13] CCD XI, 328; conference 175, “Repetition of Prayer,” 2-3 November 1656.

[14] Constitution 45, § 2.

[15] Common Rules X, 6.

[16] Constitution 46.

[17] CCD XI, 44; conference 36, “Humility.”

[18] CCD II, 462; letter 678 to Bernard Codoing.

[19] CCD XI, 281; conference 141, “The Ecclesiastical State” [September 1655].

[20] CCD XII, 334; conference 220, “Poverty,” [5 December 1659].

[21] Common Rules, VI, 2.