Nhìn lại lịch sử 400 năm Tu Hội Truyền Giáo với lòng tri ân
Trong những ngày của Tháng Tư này, những thành viên của Tu Hội Truyền Giáo khắp mọi nơi trên thế giới có một tâm tình rất đặc biệt. Đó là hướng về Nhà Mẹ Tu hội ở Paris, nơi sẽ diễn ra các cử hành phụng vụ, hành hương và học hỏi, nhân dịp kết thúc Năm Thánh 400 năm, ngày khai sinh Tu Hội Truyền Giáo. Với tâm tình “máu chảy về tim”, trong dịp này, Cha Tổng Quyền Tomaž Mavrič, CM, đã mời gọi tất cả anh em trong toàn thể Tu hội hãy làm một cuộc hành hương về Paris trong những ngày này, để hòa chung vào bầu không khí huynh đệ và hiệp hành của tất cả các nhà truyền giáo Vinh Sơn trên toàn thế giới với lòng tri ân và cảm tạ.
Nhà Mẹ Tu Hội Truyền Giáo (Maison Mère) là nơi, mà theo sự diễn tả của Cha Tổng Quyền Tomaž Mavrič, CM, đó là:
“Ngôi nhà mà tất cả chúng ta cùng chia sẻ, Nhà Mẹ của chúng ta, Maison Mère ở Paris. Trong ngôi nhà độc đáo này, chúng ta có thể trải nghiệm sự hiện diện và di sản của chính Thánh Vinh Sơn Phaolô. Ở đây, chúng ta có thể được tiếp thêm sức mạnh từ lịch sử của những người đã được sai đi truyền giáo, một số người đã phục vụ trong gian khổ, thậm chí đến mức tử đạo. Trong ngôi nhà này lưu giữ mọi thứ đã xảy ra tại Nhà Mẹ ban đầu của chúng ta, Saint Lazare. Tọa lạc tại số 95 Rue de Sèvres ở Paris ngày nay, người ta có thể trải nghiệm bản thân như một phần của một dòng chảy rất dài của các linh mục và tu huynh Vinh Sơn, mà chúng ta được hiệp nhất bởi sứ mệnh của mình. Dòng chảy này kéo dài qua thế hệ hiện tại và vượt xa chúng ta. Vâng, chúng ta thậm chí còn được hiệp nhất với những người sẽ tiếp bước sau khi chúng ta ra đi, để ở cùng các thánh trong vinh quang! Chúng ta là anh em, hiệp nhất trong sứ mệnh, kéo dài từ năm 1625 đến ngày nay và sẽ tiếp tục sau cuộc sống trần thế của chúng ta. Ngôi nhà chung của chúng ta, Maison Mère, mang đến cho chúng ta cảm thức này và kêu gọi chúng ta phục vụ với sức sống mới, được củng cố trong ơn gọi và tình huynh đệ của chúng ta.”[1]
Từ cảm thức ấy, có một dòng chảy về chiều kích thiêng liêng và linh đạo Vinh Sơn qua dòng lịch sử, xuất phát từ cộng đoàn đặc biệt này. Có thể nói, đây chính là cội rễ của mọi thế hệ trong Tu Hội Truyền Giáo, dù ở Pháp hay bất kỳ đâu trên thế giới. Vì từ nơi đây mà tinh thần và linh đạo của Thánh Vinh Sơn Phaolô, Đấng sáng lập, được truyền đi trên mọi nẻo đường truyền giáo. Nơi đây là nơi gặp gỡ, nuôi dưỡng, hun đúc tinh thần Vinh Sơn cho tất cả anh em trong toàn thể Tu hội mỗi khi có dịp về đây. Maison Mère là ngôi nhà quốc tế của Tu Hội Truyền Giáo và Gia đình Vinh Sơn. Tuy nhiên, ngôi nhà này là sự kế thừa của Nhà Mẹ nguyên thủy Saint Lazare từ năm 1817. Bây giờ chúng ta có thể quay trở lại lịch sử để hiểu rõ về ngôi Nhà Mẹ thân thương này.
Nhà Mẹ (Maison Mère)
Nhà Mẹ hiện tại của Tu Hội Truyền Giáo là Nhà Saint Lazare mới.[2] Nó thay thế Nhà Saint Lazare trước đây, đã bị tàn phá bởi cuộc cướp phá nổi tiếng xảy ra vào ngày 13 tháng 7 năm 1789, đêm trước khi pháo đài Paris và nhà tù Bastille bị chiếm trong cuộc sách mạng Pháp. Sau thảm họa này, Cha Jean-Félix Cayla de la Garde, Bề Trên Tổng Quyền, đã lánh nạn ở Palatinate (một vùng ở nước Đức hiện đại), và sau đó là ở Rome, nơi ông qua đời vào năm 1800. Vào thời điểm lịch sử đó, tất cả các hội dòng ở Pháp đã bị giải tán và tài sản của họ cũng đã bị tịch thu.
Tu viện Saint Lazare (107 Rue du Faubourg Saint Denis, Paris, Quận 10) bao gồm Gare du Nord và Nhà nguyện Thánh Vinh Sơn Phaolô, là nhà trong những năm cuối đời của thánh nhân, sau khi Tu Hội Truyền Giáo chuyển đến đó từ College des Bons Enfants vào năm 1632. Bất động sản này dường như có từ thế kỷ thứ VI. Vào thời của Thánh Vinh Sơn, nơi này bao gồm Tu viện và các tòa nhà khác, trang trại và vườn cây ăn quả, và được các Giáo sĩ dòng Victor quản lý, cho đến khi được trao lại cho Tu Hội Truyền Giáo vào năm 1632. Ngoài việc là Tu viện của các Giáo sĩ, bất động sản này còn là nơi đặt một Bệnh viện phong, Nhà thương điên và Tòa án Công lý của khu vực.[3]
Một sắc lệnh của Napoleon, có hiệu lực vào ngày 24 tháng 5 năm 1804, đã tái lập Tu Hội Truyền Giáo. Cha Dominique Hanon, Tổng đại diện người Pháp từ năm 1807 cho đến khi qua đời vào năm 1816, đã phải chịu nhiều đau khổ, vì Napoleon lại đàn áp Tu hội vào ngày 26 tháng 9 năm 1809. Cha Hanon bị giam cầm từ tháng 5 năm 1811 cho đến ngày 13 tháng 4 năm 1814. Tu hội được tái lập vào ngày 3 tháng 2 năm 1816, phải đợi đến khi Cha Charles Verbert được bầu, mới có được một ngôi nhà từ chính phủ Pháp. Để đền bù cho sự mất mát của nhà Saint Lazare trước đây, các anh em Vinh Sơn đã chiếm hữu ngôi nhà, khách sạn (hoặc nơi cư trú trong thành phố) trước đây là “de Lorges.” Nhà nước đã mua lại ngôi nhà này cho Tu hội.
Tu hội trở thành nơi tiếp đón (chính phủ sở hữu bất động sản và Tu hội được sử dụng), và ngôi nhà cuối cùng đã được mở cửa vào ngày 9 tháng 11 năm 1817. Vào thời điểm đó, ngôi nhà, số 95, phố Sèvres, bao gồm:
(1) một ngôi nhà chính ba tầng có sân trong và vườn.
(2) một phần hai tầng, trên phố Sèvres, bên cạnh ngôi nhà chính với hai tòa nhà phụ, mỗi tòa một tầng, được sử dụng làm chuồng ngựa, nhà kho và chuồng cỏ khô.
(3) một dãy nhà một tầng nằm ở nơi có nhà ăn hiện tại. Cộng đoàn đã vào để sinh sống trong ngôi nhà theo cách tốt nhất có thể trong khu nhà chật chội và không có nhà nguyện. Cha nguyên Tổng quyền Etienne đã từng nói đùa rằng “đó là chuồng ngựa của Bethlehem.”
Trong thời gian Cha Charles Boujard làm Tổng đại diện của Tu hội, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà nguyện được diễn ra vào ngày 17 tháng 8 năm 1826. Trong thời gian Cha Pierre de Wailly làm Tổng quyền (1827-1828), việc xây dựng nhà nguyện vẫn tiếp tục, và Đức Tổng Giám mục Paris, Hyacinthe de Quélen, đã làm phép và thánh hiến nhà nguyện vào ngày 1 tháng 11 năm 1827. Năm 1830, thánh tích của Thánh Vinh Sơn Phaolô được lưu giữ trong nhà nguyện mới. Năm 1855-1860, nhà nguyện Thánh Vinh Sơn được mở rộng. Bản thân nhà nguyện đã tuân theo các kế hoạch thiết kế của Chủng viện Amiens. Dần dần, cộng đoàn đã có được các bất động sản quan trọng. Năm 1835, cộng đoàn đã có được các số nhà 92, 94 và 96 rue de Cherche-Midi, nằm ở phía sau bất động sản hiện tại, và năm 1875, số nhà 90 và đến năm 2006, nhà nước Pháp chuyển giao quyền sở hữu Maison Mère cho Tu Hội Truyền Giáo.
Phía trên nhà nguyện, người ta xây các phòng, những phòng ở Hành lang Thánh Matthew và phòng ngủ cho Nội Chủng viện (nhà tập). Cha Etienne, với tư cách là Bề trên Tổng quyền, đã đảm nhiệm việc xây dựng phòng ăn hiện tại, phòng cầu nguyện, nhiều phòng ở Hành lang Thánh Macco và một nhà nguyện cho các chủng sinh. Luôn chú ý đến vẻ đẹp của nhà nguyện, ngài đã cho xây dựng bàn thờ chính với hai cầu thang chính dẫn lên Thánh Tích Thánh Vinh Sơn (tượng sáp bọc thánh tích xương của ngài). Năm 1857, xét đến nhu cầu của cộng đoàn đang phát triển, ngài đã mua bất động sản tại số 97, phố de Sèvres, và xây dựng phía cánh đó. Sau đó, vào năm 1864, ngài xây dựng phía cánh bên phải của sân trong, lối vào chính và các lối đi bên hông của nhà nguyện, vốn quá nhỏ. Cùng thời điểm đó, mặt tiền của tòa nhà trung tâm được xây dựng lại và một tháp chuông được thêm vào, như để đánh thức người bên ngoài về sự hiện diện của Tu hội nơi đây. Phần cuối cùng được mua là số nhà 93, rue de Sèvres, được xây dựng bởi Bề trên Tổng quyền nhiệt thành làm nơi ở cho những người tĩnh tâm và anh em Vinh Sơn ghé qua khi thăm viếng Nhà Mẹ. Trong vòng bốn mươi năm, Nhà Saint Lazare đã một lần nữa trở thành ‘nơi phục sinh’[4], như Thánh Vinh Sơn mô tả về Nhà Saint Lazare cũ.
Với công lao to lớn đối với Tu hội, Cha Eugene Vicart, Phụ tá Tổng quyền đầu tiên trong nhiều năm, đã nói với Cha Etienne, “không thể không có vinh quang” và nhấn mạnh: “Chúng con rất vui khi thấy cha là đấng sáng lập thứ hai của con, và nếu một ngày nào đó danh hiệu này bị đặt dấu hỏi, nếu một ngày nào đó Tu Hội quên mất những gì đã nợ cha, thì rồi chính những viên đá vô tri kia cũng sẽ lên tiếng thay và buộc tội chúng con là những kẻ vô ơn.”[5] Và nếu như thế, thì các thế hệ sau này của Tu hội, nếu quên đi công lao của Đấng sáng lập và các thế hệ đi trước trong dòng lịch sử của mình, thì ‘sỏi đá’ cũng sẽ lên tiếng.
Đó thực sự là một câu nói trứ danh cho tất cả các anh em Vinh Sơn mỗi khi có dịp thăm viếng Nhà Mẹ. Về Nhà Mẹ là để chứng kiến những gì lịch sử đã để lại trong dòng đời của Tu hội 400 năm, về để diễn tả tâm tình biết ơn về một linh đạo bác ái và truyền giáo vĩ đại đã được cảm hứng bởi Đấng sáng lập, là Thánh Vinh Sơn Phaolô, về để nhắc nhở mình vì sứ vụ đã được truyền lửa từ thủa ban đầu ấy, để đem Tin Mừng cho người nghèo khổ theo tinh thần của Thánh Vinh Sơn. Như một nhà sử học đã từng nói “kiến thức từ quá khứ hình thành nên niềm tin của ngày hôm nay. Lịch sử không phải là không liên quan. Đó là kiến trúc và nguồn gốc của ngày hôm nay. Nếu không có nó, chúng ta không thể hiểu được ngày hôm nay hoặc cách thay đổi ngày mai.”
Di chuyển Thánh tích Thánh Vinh Sơn
Ở trên chúng ta đã đề cập đến một thời điểm lịch sử của Nhà Mẹ khi Thánh tích Thánh Vinh Sơn được đặt trong nhà nguyện của Nhà Mẹ mới. Đây cũng là cả một câu chuyện dài của lịch sử và ngày nay trở thành một ngày mang tính phụng vụ trong Gia đình Vinh Sơn, khi ngày 25 tháng Tư hàng năm, là ngày kỷ niệm di chuyển Thánh tích Thánh Vinh Sơn.
Thánh Vinh Sơn được phong thánh năm 1737 bởi Đức Giáo hoàng Clement XII. Khi Thánh Vinh Sơn mất, ngài đã được chôn cất tại nhà nguyện ở Nhà Saint Lazare.[6] Sau đó, năm 1712, để chuẩn bị cho lễ phong chân phước, người ta đã tiến hành khai quật mộ của ngài. Sau đó thánh tích được đặt trong một hòm hòm nạm bạc, và được đặt ở bàn thờ cạnh của nhà nguyện tại Saint Lazare năm 1730. Sau khi các anh em Vinh Sơn bị trục xuất khỏi Nhà Saint Lazare, thánh tích của Thánh Vinh Sơn được giao cho công chứng viên của cộng đoàn (1792-1795) và được lưu giữ ở những nơi khác cho đến năm 1805.
Từ năm 1805 đến năm 1830, thánh tích được các Nữ Tử Bác Ái lưu giữ, tại phố Vieux Colombier (1805-1815) và tại phố du Bac (1815-1830). Tại ngôi nhà phố du Bac, thánh tích được đặt dưới bàn thờ của vị thánh trong nhà nguyện chính. Thánh John Gabriel Perboyre đã cử hành thánh lễ đầu tiên của mình trên bàn thờ đó, hiện tại ở Bảo tàng Vinh Sơn, phố de Sèvres.
Các anh em ở rue de Sèvres đã lên kế hoạch di chuyển thánh tích của ngài đến nhà nguyện mới, được hoàn thành năm 1827.[7] Đức Tổng Giám mục Paris, Hyacinthe de Quélen, đã đồng ý làm một hòm đựng thánh tích đồ sộ. Charles Odiot, thợ kim hoàn của Công tước xứ Orleans và những khách hàng giàu có khác, đã hoàn thành nó trước năm 1827 (ngày này được khắc trên hộp đựng thánh tích) và trưng bày tại một cuộc triển lãm quốc tế ở Paris, nơi nó đã giành được giải thưởng.[8] Phía trên phần chính của hòm đựng thánh tích là một cảnh mô tả thánh Vinh Sơn được đưa lên thiên đàng. Bốn thiên thần vây quanh ngài, với các biểu tượng của tôn giáo, đức tin, hy vọng và lòng bác ái. Hai đứa trẻ mồ côi ở hai bên thánh tích. Một dòng chữ bằng tiếng Latin có nội dung “Corpus Sancti Vincentii A Paulo – Thi thể của Thánh Vinh Sơn Phaolô” được khắc trên hòm thánh tích. Đức Tổng Giám mục Paris giữ hòm đựng thánh tích rỗng bên mình cho đến năm 1830.
Đức Tổng Giám mục Paris đã làm phép và thánh hiến nhà nguyện vào năm 1827[9] và lên lịch trình di chuyển thánh tích cuả Thánh Vinh Sơn cùng thời gian ấy. Nhưng vì các vấn đề chống giáo sĩ, bao gồm cả việc trục xuất các tu sĩ Dòng Tên và những người khác, đã khiến ngài phải hoãn lại. Vào năm 1830, thời tiết đã cải thiện và Đức Tổng Giám mục đã lên lịch một buổi lễ trọng thể vào ngày 25 tháng 4, Chúa Nhật thứ hai của Lễ Phục sinh. Ngài đã đề nghị tổ chức các buổi cầu nguyện trong các giáo xứ và quyên góp để trả tiền cho ông Odiot (thợ kim hoàn) về hòm đựng thánh tích. Số tiền còn lại sẽ được chuyển đến các Nữ Tử Bác Ái để làm từ thiện.
Thánh tích rời khỏi rue du Bac vào ngày 30 tháng 3 và đến Tổng giáo phận, tại nhà thờ Chánh tòa Notre Dame de Paris. Tại đó, các thủ tục chính thức đã được thực hiện để xác thực các thánh tích. Thánh tích đã được chuẩn bị, làm sạch sẽ và được bày trí lại, và một mặt nạ sáp được làm để bọc thánh tích. Vị kinh sỹ trao cho Tu hội cái gọi là cây thánh giá của Louis XIII, mà Thánh Vinh Sơn đã sử dụng để an ủi vị vua lúc hấp hối. Nó được đặt giữa hai bàn tay của ngài. Cây thánh giá đáng chú ý đó có một hộp đựng thánh tích nhỏ được đặt dưới tượng Chúa Kitô bằng ngà voi, với thánh tích của Thánh giá thật và Thánh Victoria. Bên dưới là một mảnh ngọc lục bảo san hô, mô tả Chúa Giêsu và Mẹ Maria với Thánh Gioan Tẩy giả đang mang một cây thánh giá. Hòm đựng thánh tích đã được làm phép vào ngày 23 tháng 4 với thánh tích của Thánh Vinh Sơn được đặt trong đó và được niêm phong cẩn thận. Ngày hôm sau, ngài được rước đến nhà thờ lớn để cầu nguyện và có các bài diễn thuyết tưởng niệm.
Vào Chủ Nhật, ngày 25 tháng 4, buổi lễ bắt đầu bằng kinh chiều lúc 3 giờ chiều, bị gián đoạn bởi đoàn rước dài, với binh lính, ban nhạc diễu hành và các nhóm giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Trong số nhiều giám mục, có Đức cha Louis William Dubourg, nguyên giám mục của Louisiana, người đã mời các nhà truyền giáo đến Hoa Kỳ và truyền chức linh mục cho Thánh John Gabriel Perboyre vào năm 1826. ĐứcTổng giám mục quyết định rằng, ngoài việc tôn vinh Thánh Vinh Sơn, sự kiện này sẽ là một dấu hiệu tôn giáo công khai lớn, quan trọng nhất sau Cách mạng. Nó cũng bao gồm những lời cầu nguyện cho quân đội Pháp, đang bắt đầu chinh phục Algeria (sẽ rơi vào tay người Pháp trong vài tuần nữa). Thật không may, đoàn rước đi kèm với sự lạnh lùng và thù địch – vì là dân chúng chống lại Vua Charles X, người đã giải tán quốc hội vào tháng 3, vì lý do nhà nước, hơn là chống lại Giáo hội và Thánh Vinh Sơn-. Một số tờ báo phàn nàn về đoàn rước “bất hợp pháp” đó và các thánh tích “không xác thực” của nó.
Đoàn rước dừng lại trước Hotel-Dieu rồi tiến về phía Institut de France, đi qua con sông (gần nơi Thánh nhân từng sống, trên phố de Seine), rồi dọc theo phố des Saints-Pères, nơi ngài từng làm việc tại bệnh viện bác ái. Điểm dừng chân cuối cùng là phố de Sèvres, gần địa điểm của siêu thị Bon Marché ngày nay, địa điểm của một bệnh viện nơi Thánh nhân đã gửi Thánh Louise de Marillac và các Nữ Tử Bác Ái đến làm việc.
Đoàn rước đến nhà nguyện của Nhà Mẹ và sau khi kinh chiều bị gián đoạn, đoàn kết thúc bằng lời cầu nguyện cho Nhà vua. Một giám mục được mời phát biểu đã phải dừng lại, vì đoàn rước mất ba giờ mới đến nơi. Bài diễn văn của ngài sau đó đã được in ra.
Trong một tuần, mọi người đổ xô đến nhà nguyện từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối, tham dự thánh lễ vào buổi sáng và các bài giảng long trọng vào buổi chiều. Mỗi giáo xứ ở Paris đều được mời tham dự lần lượt. Công chúa của Nhà vua đã tham dự và cả Nhà vua cũng vậy, người đã có mặt trong buổi cử hành Bí tích Thánh Thể. Sau đó, chính Nhà vua đã tặng kim loại để làm một huy chương kỷ niệm, trong đó có 30.000 bản đã được tạo ra.
Về chính trị, sau khi cuộc bầu cử được tổ chức, họ đã mang đến thất bại cho đảng bảo hoàng. Vào ngày 27 tháng 7 năm 1830, các rào chắn đã được dựng lên và một cuộc biểu tình bắt đầu tại Cung điện Hoàng gia kêu gọi một cuộc cách mạng (‘ba ngày vinh quang’ từ ngày 27 đến 29 tháng 7). Charles X đã thoái vị vào ngày 2 tháng 8, chỉ định cháu trai của mình là Henry V làm người kế vị. Tuy nhiên, ngày hôm sau, Hội đồng tuyên bố ngai vàng bị bỏ trống.
Ngày 29 tháng 7, những người cách mạng xông vào tòa giám mục và lấy cắp số tiền thu được để trả cho ông Odiot. Ông Odiot, đến lượt mình, vì sự mất kiên nhẫn, đã yêu cầu trả lại hòm đựng thánh tích. Trong bầu không khí cách mạng nguy hiểm này, thánh tích của Thánh Vinh Sơn đã được đưa ra ngoài vào ngày 27 tháng 8 và được bí mật cất giữ tại rue du Bac, và hòm đựng thánh tích đã được trả lại cho ông Odiot. Ông Odiot đã đưa Đức Tổng Giám mục Paris ra tòa và đệ đơn kiện ngài, có lẽ là để ông có thể đúc lại bạc từ hòm đựng thánh tích và sử dụng nó cho các mục đích khác. Cuối cùng, Đức Tổng Giám mục đã ra lệnh thực hiện một cuộc quyên góp khác tại các nhà thờ ở Paris. Vào khoảng ngày 10 tháng 7 năm 1834, số tiền đã được quyên góp và trả cho ông Odiot; hòm đựng thánh tích đã được phục hồi và trao cho các Nữ Tử Bác Ái như đã định ban đầu.
Trong suốt thời gian này, nhà nguyện của Nhà Mẹ vẫn đóng cửa. Thánh tích của vị thánh được bí mật chuyển đến Roye (Picardy) vào ngày 7 tháng 3 năm 1831, nơi nó được giấu trong tầng hầm của một ngôi nhà liền kề với trường học mà các nhà truyền giáo có trong thành phố. Nó vẫn ở đó cho đến năm 1834, ngay trước ngày kỷ niệm của việc di chuyển thánh tích gốc. Nhà nguyện, với hòm đựng thánh tích được phục hồi, đã được mở cửa trở lại cho công chúng vào thời điểm đó.[10]
Tu Hội cử hành lễ di chuyển thánh tích vào ngày 25 tháng 4 hằng năm. Lễ kỷ niệm này là bắt buộc tại Nhà Mẹ và có thể được cử hành tùy chọn ở những nơi khác.[11]
Khi nói về biến cố này năm 1830, cha Tổng quyền lúc bấy giờ là Cha Etienne đã chia sẻ tâm tình của mình:
“Đối với chúng ta, biến cố đó là về hình ảnh một người cha trở về với con cái của mình. Thánh Vinh Sơn đã đến để mang đến cho họ nguồn cảm hứng từ tinh thần của ngài và ngọn lửa từ trái tim vĩ đại của ngài. Đó là về một cuộc sống mới mà ngài sẽ truyền đạt cho hai gia đình của mình (Tu Hội Truyền Giáo và Tu Hội Nữ Tử Bác Ái), để tái tạo tất cả những điều kỳ diệu của lòng bác ái của ngài, không chỉ trong phạm vi hạn hẹp của nước Pháp và Châu Âu, mà còn ở mọi vùng trên vũ trụ. Kỷ nguyên này dường như được định sẵn, như để tiêu diệt mọi hy vọng của chúng ta và khiến những nỗ lực cho đến lúc đó, nhằm khôi phục Tu hội của chúng ta trở nên vô ích, nhưng ngược lại, lại là điểm khởi đầu cho những công trình vĩ đại mà Tu hội được dành riêng để thực hiện, và của một sự thịnh vượng mà Tu hội chưa từng biết đến trước đây.”[12]
Như vậy, đọc lại lịch sử người ta có thể nhận ra sự quan phòng rõ rệt và đây yêu thương của Chúa quan phòng dành cho Tu Hội Truyền Giáo. Một biến cố lịch sử tại Pháp đã xóa sổ nhiều cộng đoàn dòng tu, nhưng với Tu hội, nó đã may mắn sống sót và tồn tại, và phát triển cho đến hôm nay.
Ngoài ra chúng ta còn thấy có thánh tích trái tim của Thánh Vinh Sơn. Với những dự liệu mang tính ngôn sứ, trái tim của Thánh Vinh Sơn đã được lấy ra ngay sau khi ngài qua đời. Nữ công tước d’Aiguillon đã dâng kính một hộp đựng thánh tích bằng bạc cho thánh tích này, sau đó được cất cẩn thận trong một chiếc tủ. Khi Thánh Vinh Sơn được phong chân phước vào ngày 13 tháng 8 năm 1729, thi thể và trái tim của ngài đã được đặt trên một bàn thờ tại Saint Lazare để mừng lễ ngài vào ngày 27 tháng 9.
Vào ngày 13 tháng 7 năm 1789, trong thời gian diễn ra Công xã, Bề trên Tổng quyền, Cha Cayla de la Garde, đã giao thánh tích này cho Cha Siccardi, Trợ lý của ngài, người đã cố gắng mang thánh tích này đến Turin, giấu trong một cuốn sách rỗng ruột. Theo yêu cầu của Hồng y Fesch, thánh tích đã được trả lại Lyon vào ngày 1 tháng 1 năm 1805.
Vào ngày 15 tháng 2 năm 1947, Sơ Blanchot, Bề Trên Tổng Quyền của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái, đã gặp Đức Hồng y Gerlier, Tổng giám mục Lyon, và bày tỏ với ngài mong muốn của mình: “Ngài không biết rằng trái tim của Thánh Vinh Sơn đã hiện ra nhiều lần với (Sơ) Catherine Labouré. Chúng con muốn trái tim hiện diện trong lễ tôn vinh vị Thánh của chúng con.”
Khi không nhận được phản hồi nhanh chóng, vị Bề trên Tổng quyền này, hơi mất kiên nhẫn, muốn đánh điện tín, nhưng dịch vụ đó đang bị đình công, ngoại trừ các trường hợp cấp cứu y tế. “Cấp cứu của Trái tim”, bà đã được trả lời và ngay lập tức, qua điện tín, “Magnificat!” Bà được phép lấy thánh tích.
Hiện tại, thánh tích này đang ở trên bàn thờ dành riêng cho Thánh Vinh Sơn trong Nhà nguyện Đức Mẹ Ảnh Phép lạ ở Paris, số 140 phố du Bac (Nhà Mẹ của Tu hội Nữ Tử Bác Ái).
Vào ngày 25 tháng 1 năm 2017, nhân dịp 400 năm khai sinh linh đạo Vinh Sơn, thánh tích trái tim của Thánh Vinh Sơn đã được hành hương, bắt đầu từ nước Pháp thân yêu của ngài và sau đó đến “các vùng ngoại vi của thế giới này.”[13]
Ngày thành lập Tu hội
Hợp đồng thành lập Tu hội diễn ra vào ngày 17 tháng 4 năm 1625.[14] Hành động pháp lý này được ký bởi ông bà Gondi, Cha Vinh Sơn Phaolô và hai công chứng viên lưu trữ hoàng gia, tạo nên nguồn gốc cho nhóm truyền giáo tương lai.
Mặc dù những người sáng lập, theo đúng nghĩa của thuật ngữ này, sẽ là những người đáng kính của gia đình Gondi, nhưng Cha Vinh Sơn sẽ phải đảm nhận các nghĩa vụ hợp pháp để thành lập nhóm truyền giáo (đại phúc):
- Cam kết thành lập một nhóm truyền giáo trong một năm, gồm sáu thành viên trở lên nếu thu nhập cho phép.
- Nhóm sẽ bao gồm các linh mục được giải phóng khỏi mọi nghề nghiệp khác để có thể cống hiến hết mình cho các Đại phúc.
- Cha Vinh Sơn sẽ lãnh đạo nhóm và sau khi ngài qua đời, một người kế nhiệm sẽ được bầu.
- Họ sẽ sống trong cộng đoàn, mặc dù có nêu rõ rằng trưởng nhóm sẽ tiếp tục sống trong nhà của ông bà Gondi.
- Một số khía cạnh chung về các đại phúc được giao được nêu rõ: công việc, thời gian, địa điểm, nghỉ ngơi, chuẩn bị, v.v.
- Các Đại phúc sẽ được tổ chức vô vị lợi.
Hợp đồng ban đầu này nêu ra những nét cơ bản của dự án, bao gồm cả tinh thần và yếu tố pháp lý. Rồi sau đó, Tu hội còn trải qua một vài giai đoạn cần thiết, để có thể có được sự chuẩn nhận chính thức mang tính giáo luật qua sự chuẩn nhận của Tòa thánh, để trở thành một Tu hội với đầy đủ tư cách giáo luật như ngày nay.
Sự chấp thuận Tu hội do Tổng Giám mục Paris ban hành ngày 24 tháng 4 năm 1626. Một năm sau khi thành lập, Tổng giám mục Paris, Đức cha J. François de Gondi, anh trai của ông de Gondi, đã đồng tình và chuẩn nhận bản hợp đồng thành lập “như chúng tôi nhận được, đồng tình và chấp thuận.”[15]
Với sự chấp thuận này, Tổng Giám mục đưa hợp đồng vào phạm vi giáo hội, giáo luật. Cần lưu ý rằng những gì Tổng giám mục chấp thuận là hợp đồng thành lập, chứ không phải là một hội dòng mới, một hoạt động bị cấm kể từ Công đồng Lateran (1215) được công đồng Trent phê chuẩn (1563).
Vào thời điểm đó, người bạn đồng hành duy nhất của Cha Vinh Sơn là Cha Antonio Portail. Để đáp ứng các nghĩa vụ do quỹ đặt ra, họ phải nhờ đến một linh mục thứ ba mà họ trả năm mươi escudo một năm.[16] Đó là những thời điểm khó khăn mà Cha Vinh Sơn nhớ lại nhiều năm sau:
“Ba chúng tôi sẽ đi rao giảng và đại phúc từ làng này sang làng khác. Khi chúng tôi rời đi, chúng tôi sẽ đưa chìa khóa cho một trong những người hàng xóm hoặc nhờ anh ta đến ngủ trong nhà. Tuy nhiên, tôi chỉ có một bài giảng mà tôi đã giảng hàng ngàn lần, đó là về lòng kính sợ Chúa.”[17]
Hoàng gia phê duyệt Tu Hội, tháng 5 năm 1627
Trong vòng chưa đầy một năm, từ cam kết liên kết giữa những nhà truyền giáo đầu tiên, sự chấp thuận của Louis XIII, Vua của Pháp, đã đạt được, do đó có được tư cách pháp nhân dân sự, để đối mặt với tương lai dưới sự bảo vệ luật pháp của vương quốc. Văn bản làm rõ một số khía cạnh: nhóm giáo sĩ, sống chung, sẽ cống hiến hết mình “hoàn toàn và chỉ để hướng dẫn tinh thần cho những người nghèo, đi theo sự cho phép của các giám mục của vương quốc chúng ta, mỗi người trong phạm vi giáo phận của mình, để rao giảng, xưng tội, khuyên nhủ và dạy giáo lý cho những người nghèo này ở các làng, mà không nhận bất kỳ khoản thù lao nào dưới bất kỳ hình thức nào.”[18] Cộng đoàn truyền giáo có được tầm quan trọng riêng trong các nghĩa vụ và quyền lợi của Nhà nước.
Sau đó Tu Hội lần lượt đệ trình các thỉnh cầu lên Tòa thánh để xin thành lập Tu Hội
Bản thỉnh cầu hoàn chỉnh đã được gửi đến Văn phòng Thư ký của Thánh bộ Giám mục và Tu sĩ vào ngày 13 tháng 2 năm 1632. Gần một năm sau, vào ngày 12 tháng 1 năm 1633[19], theo sắc chỉ “Salvatoris Nostri”, Đức Giáo hoàng Urban VIII đã chấp thuận tất cả những gì được yêu cầu. Chức năng của nhóm truyền giáo, công việc của các nhóm “đại phúc”, cuối cùng đã trở thành một Tu Hội Truyền Giáo theo cách chính thức, được thẩm quyền cao nhất của Giáo hội chấp thuận. Sắc chỉ Tòa Thánh này đã ủy quyền cho Tổng giám mục Paris và những người kế nhiệm ngài vĩnh viễn chấp thuận, nhân danh và với thẩm quyền của Tòa thánh, các quy tắc và hiến pháp được trình lên ngài.
Với một vài biến cố quan trọng đã diễn ra vào tháng Tư trong lịch sử Tu hội, chúng ta có thể nhận ra sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với Tu hội nhỏ bé này. Điều mà chính Thánh Vinh Sơn Phaolô, Đấng sáng lập đã luôn xác tín ngay từ ban đầu hết:
“Trong hai mươi năm, tôi không dám cầu xin điều đó với Chúa, vì nghĩ rằng, vì Tu hội là công trình của Chúa, chúng ta nên để cho sự quan phòng của Chúa một mình chịu trách nhiệm bảo tồn và phát triển Tu hội. Nhưng, bị ấn tượng bởi lời khuyến cáo được đưa ra cho chúng ta trong phúc âm, là hãy cầu xin Chúa sai thợ gặt vào mùa gặt, tôi đã trở nên tin chắc về tầm quan trọng và tính hữu ích của lòng sùng kính này.”[20]
Và để kết thúc dòng suy tư này, xin mượn lời của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi kết thúc năm thánh 2000 trong Novo millennio ineunte, số 1 với những lời đầy khích lệ, Duc in altum (ra chỗ nước sâu)! Những lời này vang lên cho chúng ta ngày hôm nay, và chúng mời gọi chúng ta nhớ lại quá khứ với lòng biết ơn, sống hiện tại với lòng nhiệt thành và hướng về tương lai với lòng tin tưởng.
Hy vọng rằng, Tu Hội sẽ tiếp tục tồn tại và trổ sinh hoa trái trong nhiều trăm năm phía trước. Trong dịp 400 năm này, mong sao tinh thần của Đấng sáng lập sẽ khích lệ tất cả các thành viên Tu Hội Truyền Giáo, tiếp tục sống tinh thần truyền giáo ban đầu hết. Đó là niềm hy vọng tiếp tục dấn thân và tiến bước trong tâm tình của Thánh Phaolô tông đồ, mà Thánh Vinh Sơn coi như châm ngôn sống cho mình: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5:25).
Kỷ niệm Bế mạc Năm Thánh 400 năm CM
Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM
[1] Thư của cha tổng quyền gởi toàn thể Tu Hội nhân dịp làm phép việc trùng tu Nhà Mẹ tại Paris để chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 400 năm, https://congregatiomissionis.org/en/2023/04/05/motherhouse-the-maison-mere-in-paris-2/
[2] Phần Nhà Mẹ được trình bày theo: Annales CM 72 [1907] 137-156.
[3] Saint-Lazare nằm ngoài ranh giới thành phố Paris. Một địa bàn rộng lớn với các tòa nhà và khu vực bao phủ một hình tứ giác rộng lớn mà ngày nay được bao quanh bởi rue du Paradis, rue du Faubourg-Saint-Denis, boulevard de la Chapel le, và rue du Faubourg-Poissoniere. (Cf. Jean Parrang, “Saint-Lazare” in Petites Annates de S. Vincent de Paul, 1903, pp. 13-30.) Trong đơn thỉnh cầu của mình gửi Đức Giáo hoàng Urban VIII (CCD I, 248-57), Thánh Vinh Sơn đã mô tả chi tiết về tình hình của Saint-Lazare vào năm 1634. Adrien Le Bon, Canon Regular của Saint Augustine và Prior của Saint-Lazare, đã đề nghị tu viện cho Thánh Vinh Sơn. Lời đề nghị hào phóng này đã khiến thánh nhân lo lắng và đã từ chối—nhiều lần—cho đến khi một cố vấn đáng tin cậy, Andre Duval, thuyết phục ngài về sự khôn ngoan của thỏa thuận này. Hợp đồng đã được ký vào ngày 7 tháng 1 năm 1632 (cf. CCD XIIIa, 263). Ngày hôm sau, Thánh Vinh Sơn và những người của ngài đã đến sống tại Saint-Lazare. Le Bon cũng đã tặng một số trang trại để hỗ trợ cho Tu Hội (CCD XI, xiii). Xem thêm tại https://wiki.famvin.org/en/Saint_Lazare và tại https://via.library.depaul.edu/cgi/viewcontent.cgi?referer=&httpsredir=1&article=1061&context=vhj
[4] CCD XI, 13.
[5] Cf. Annales CM 72 [1907] 137-156.
[6] Zurawski, Simone Ph.D. (1993) “Saint-Lazare in the Ancien Regime: From Saint Vincent de Paul to the French Revolution,” Vincentian Heritage Journal: Vol. 14: Iss. 1, Article 2., 22. https://via.library.depaul.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1114&context=vhj
[7] Xem tại https://www.sacredarchitecture.org/articles/the_alliance_des_arts_the_chapelle_des_lazaristes_and_the_reliquary_shrine
[8] Thánh Vinh Sơn đã mất vào ngày 27 tháng 9 năm 1660. Khi hài cốt của Thánh Vinh Sơn được khai quật vào năm 1712, chúng còn tương đối nguyên vẹn; nhưng mắt và mũi đã biến mất. Tuy nhiên, đến năm 1737, chỉ còn lại bộ xương còn nguyên vẹn. Chiếc hòm đựng thánh tích được làm bởi thợ kim hoàn Jean-Baptiste-Claude Odiot. Chiếc bình dài 2,25 mét, rộng 65cm và có chiều cao ở giữa khoảng một mét. Nó chủ yếu được làm bằng bạc và chứa bộ xương của ngài. Ở một đầu là một mặt nạ bằng sáp mô tả khuôn mặt và bàn tay của vị Thánh. Phía trên đầu ngài là các biểu tượng của đức tin, hy vọng và lòng bác ái, ba đức tính thần học gắn liền với Thánh Vinh Sơn, được bốn thiên thần mang theo. Chiếc hòm được tài trợ bởi một khoản đóng góp công khai của người dân Paris. Xem thêm https://cmission.fr/communautes/maison-mere/chapelle-saint-vincent-de-paul-paris/
[9] Xem tại https://www.sacredarchitecture.org/articles/the_alliance_des_arts_the_chapelle_des_lazaristes_and_the_reliquary_shrine
[10] https://cmission.fr/communautes/maison-mere/chapelle-saint-vincent-de-paul-paris/
[11] The translation of the relics of Saint Vincent de Paul (1830), Annales C.M. 95 (1930) pp. 241 ff.
[12] Etienne’s circular Letter of 1-1-1861, Interpretation of the transfer of relics (Circulaires, III, pp. 322-323).
[13] Vincent’s Heart on pilgrimage to the peripheries, https://cmglobal.org/en/2017/01/24/vincents-heart-on-pilgrimage-to-the-peripheries/#:~:text=On%2013%20July%201789%2C%20during,today:%20Dare%20to%20be%20loving!
[14] CCD XIIIa, 213-217.
[15] CCD XIIIa, 218.
[16] Cf. J.M. ROMÁN, o.c., p. 181.
[17] CCD XI, 117.
[18] CCD XIIIa, 226-227.
[19] CCD I, 110. Sắc lệnh của Đức Giáo hoàng ghi ngày 12 tháng 1 năm 1632, nhưng vì năm bulla bắt đầu vào ngày 25 tháng 3 chứ không phải ngày 1 tháng 1, nên ngày 12 tháng 1 năm 1632 tương ứng với ngày 12 tháng 1 năm 1633 của năm vulgat. Đối với phần còn lại, các cuộc đàm phán để có được sự chấp thuận vẫn tiếp tục sau ngày 12 tháng 1 năm 1632; do đó, ngày này, được hiểu theo nghĩa hiện tại, không thể được chấp nhận là chính xác.
[20] CCD V, 468.