Viện trợ và nghèo đói toàn cầu: Hướng phát triển từ dưới đi lên
Scott P. Kelly, Ph. D
Phó Chủ Tịch Học Bổng Vinh Sơn
Văn phòng Truyền giáo và Những Giá Trị
Đại Học DePaul
Chuyển ngữ: Lm. Giuse Phạm Văn Diệm C.M.
Vào đầu tháng 1 năm 2007 đại học Depaul đã tổ chức cuộc hội thảo thường niên về đạo đức kinh doanh mang tính Vinh Sơn quốc tế đề cập đến chủ đề về toàn cầu hóa và nghèo đói. Trường đại học Depaul một trường đại học Vinh Sơn Công giáo phù hợp đề tổ chức cuộc hội thảo này. Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu về nghèo đói không có gì mới so với các trường đại học khác đã thực hiện; thật vậy Chicago là xứ sở của Trung Tâm Cổ Phần nghiên Cứu về nghèo đói, một nỗ lực hợp tác giữa hai trường đại học Northwestern và Chicago, đã xác định những vấn đề liên quan đến nghèo đói từ năm 1996. Nếu như chỉ có vài hoặc thậm chí nhiều trường đại học đã tham gia vào việc nghiên cứu nghèo đói, thì phải chăng những nỗ lực của một trường Công Giáo Vinh Sơn dưới ánh sáng của sứ vụ hoặc di sản của mình còn phải độc nhất vô nhị nữa chăng? Tuy vậy, nằm dưới lớp bao phủ của việc nghiên cứu nghèo đói ở bất kỳ khả năng nào vẫn còn có một số hướng tiếp cận phù hợp hơn dành cho sứ vụ Vinh sơn, Công giáo hơn các trước đại học khác. Vậy, một câu hỏi quan trọng còn lại là di sản Vinh Sơn và Công giáo phải đưa ra những nghiên cứu về nghèo đói gì để xứng với sứ vụ của mình?
Giải đáp câu hỏi này, tôi sẽ nghiên cứu 3 khía cạnh về việc làm giảm nghèo đói: thứ nhất cuộc thảo luận hiện tại giữa 2 nhà kinh tế về sự phát triển nổi tiếng; thứ hai từ nguyên lý viện trợ từ Giáo huấn về xã hội Công Giáo; và thứ ba từ di sản Frederick Ozanam. Tôi sẽ kết luận bằng việc xác định một số phương pháp nổi bật hiện tại vốn rất phù hợp cho việc nghiên cứu việc giảm đói nghèo tại trường đại học Công giáo, Vinh Sơn.
Cuộc tranh luận giữa Sachs và Easterly
Từ lúc Liên hiệp quộc nhắm đến việc xóa bỏ hoàn toàn đói nghèo trong những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên kỷ năm 2000, có cuộc tranh luận gay gắt giữa những nhà kinh tế phát triển Jeffrey Sachs và William Easterly. Jeffrey Sachs tin rằng trách nhiệm chính yếu cho việc chấm dứt đói nghèo toàn cầu phụ thuộc vào các quốc gia giàu có, họ vốn có thể kết thúc thành công vào năm 2025, cùng với việc đầu tư nho nhỏ từ việc viện trợ nước ngoài. Ngược lại, William Easterly tin rằng tham vọng của các nước giàu là tàn dư của một não trạng thực dân và để sự phát triển kinh tế hiệu quả buộc phải bộc phát từ những cộng đồng nghèo đói. Cuộc tranh luận giữa Sachs và Easterly vượt qua xa bất đồng chiến lược về chính sách công; nó đụng đến rất nhiều vấn đề nền tảng có liên quan đến cả trách nhiệm xã hội lẫn học thuyết. Tranh luận về nghèo đói toàn cầu trở nên cực kỳ gay cấn giữa những hiểu biết về đặc quyền tương đối của mình trong nền kinh tế toàn cầu. Như thế, phản ánh phê bình phải bổ sung cho phản ánh về chính sách và chiến lược hiệu quả.
Dù cho một số bên quan tâm, gồm có những tổ chức toàn cầu như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Ngân Hàng Thế Giới, những mạnh thường quân giàu có, những nhà phát triển kinh tế, tổ chức phi lợi nhuận và các nhà giải trí, tất cả đều mong muốn chấm dứt tình trạng nghèo đói toàn cầu nhờ vào viện trợ nước ngoài, thì William Easterly có vẻ vẫn luôn là người chỉ trích đơn độc kêu gào trong hoang mạc. Bên ngoài xét về mặt đạo đức có vẻ như đó là lời chê trách đối với bất cứ ai dám chỉ trích những hào phóng của những con người sống trên đỉnh của kim tự tháp kinh tế giúp đỡ 4 tỷ người đang sống với thu nhập dưới 2 đô la mỗi ngày. Jeffrey Sachs cùng nhiều người khác cho rằng việc viện trợ từ nước ngoài và hoạt động từ thiện chỉ có thể hiệu quả khi lên kế hoạch đúng cách. Trái lại, William Easterly rất nghi ngờ về việc tài trợ nước ngoài và hoạt động từ thiện có kế hoạch kém. Cuộc tranh luận sôi nổi giữa hai ông có những ngụ ý quan trọng và đáng chú ý.
Nếu mục đích của viện trợ và từ thiện làm giảm tác động nghèo đói toàn cầu và không chỉ làm xoa dịu sự mặc cảm về đặc quyền, thì hẳn có một số vấn đề quan trọng liên quan đến điều gì có thể làm và phải được thực hiện. Việc phí phạm tiền của qua việc hỗ trợ vô tội vạ có thể là điều ngu ngốc hoặc là thiếu thận trọng, nhưng một cách nào đó gián tiếp ủng hộ cho chính quyền tham nhũng hoặc áp bức thông qua việc phân phối tiền của bất cẩn lại là vấn đề xét về mặt đạo đức giống như việc thờ ơ với nghèo đói toàn cầu, nếu không muốn nói là hơn nữa.
Chấm dứt nghèo đói
Trong phần Chấm Dứt Nghèo Đói: Những Khả Năng Kinh Tế Trong Thời Đại Chúng Ta, Sachs đưa ra trường hợp thúc ép nhằm tăng viện trợ. Ông bắt đầu bằng việc về một bức tranh toàn cảnh về nghèo đói và về thế giới với 6.6 tỉ dân: 40 phần trăm họ trong tình trạng cùng cực, 1 tỉ người đang chiến đấu cho sự sống còn với điều căn bản thường ngày, còn đối với người nghèo thì 1.5 tỉ đang sống trên cấp độ sinh tồn một chút. Đang khi một nửa dân số thế giới nghiệm được sự tăng trưởng kinh tế, thì sự cùng cực lại đã và đang tăng kể từ năm 1981 tại vùng Châu Phi cận Sahara. Nhiều người trong số 6.6 dân số thế giới đang ở trong “cái bẫy nghèo” những cảnh làm ngăn cản sự phát triền kinh tế trải dài từ địa vật lý đến địa chính trị.
Trọng tâm tiên lượng của Sachs nhắm đến khoản đầu tư ngược với việc viện trợ từ cách quốc gia tài trợ. Vì người nghèo hoạt động trong cái bẫy nghèo nơi mà tỉ lệ vốn cho mỗi người thụt giảm từ thế hệ này đến thế hệ kia, nên “tự thân người nghèo không có khả năng thóat ra mớ hỗn độn đó.” Bởi vì người nghèo không vượt qua được cái bẫy nghèo, nên các quốc gia viện trợ buộc phải thiết lập hoặc tái thiết một nền kinh tế lành mạnh. Việc đầu tư ngược lại các nhà tài trợ chỉnh đốn được những khiếm khuyết cụ thể sẽ nâng cao được mức vốn bình quân đầu người, chấm dứt hiệu quả bẫy nghèo.
Sachs tìm ra 3 trọng trách đối với Hoa Kỳ, là một quốc gia viện trợ giàu có, để tăng mức góp GNP từ 0.14 phần trăm (15 tỉ đô la) năm 2004 đến 0.7 phần trăm (75 tỉ đô la) vào trong Văn Phòng Hỗ Trợ Phát Triển dành cho ai nằm trong cái bẫy nghèo: thứ nhất, Hoa Kỳ đã hứa công khai thật nhiều, nhưng đã không thực hiện việc phân phát; thứ hai, với việc đầu tư nhỏ bé như vậy khi so sánh với việc chi tiêu quân sự (hơn 30 lần hoặc 450 tỉ đô la năm 2004) nên đầu tư vào một chương trình “Khai sáng Toàn Cầu” hơn là thực hiện chính sách đối ngoại tập trung hoàn toàn vào sức mạnh quân sự; thứ ba những người giàu phải có nghĩa vụ đạo đức là đóng góp cho những ai không có khả năng đảm bảo về mặt kinh tế cho mình. Tôi sẽ không nói đến hai trách nhiệm đầu về mặt đạo đức vì không đúng với cam kết công khai là một vấn đề căn bản của sự chính trực, và vị “Khai Sáng Toàn Cầu” khong mang trách nhiệm đạo đức đặc biệt nào hơn là làm tư lợi hợp lý.
Lý luận đạo đức của Sachs đáng chú ý. Nếu người ta giả sử câu truyện về cái bẫy nghèo là đúng thì sự trợ giúp của nhà tài trợ trong một số phần trăm hợp lý cho GNP là một bổn phận phải làm xét về mặt đạo đức. Peter Singer đưa ra so sánh tương tự khi xét đến mức độ nghiêm trong của cùng cực và sự đóng góp ít ỏi tương đối cần để chỉnh đổi nó. Đó có thể là một sụ vi phạm trong bổn phận căn bản khi không quan tâm mặc dù vấn đề có thể nằm ngoài phạm vi quan tâm trực tiếp của người đó. Những góp phần nhỏ bé đó không thể nào tạo ra bất kỳ thách thức tức thời nào đói với nghĩa vụ địa phương của người ta, và vì thế nó được coi là một nghĩa vụ chứ không phải là quá bổn phận. Cảm quan của trách nhiệm đạo đức như vậy được diễn tả tốt nhất bởi Bono: “những gì đang xảy ra ở Châu phi giễu cợt nhiệt huyết của chúng, nghi ngờ sự quan tâm của chúng tôi, và chất vấn sự cam kết của chúng tôi đối với điều mà toàn khái niệm… trong sâu thẳm, nếu chúng ta thật sự chấp nhận rằng cuộc sống của mình, những người Châu phi bình đẳng với chúng ta, thì tất cả chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa để dập lửa. Điều đó là sự thật khó chịu. Tuy nhiên, Văn Phòng Hỗ Trợ Trực Tiếp phải chăng chỉ là một lỗi diễn tả về niềm tin thực sự vào bình đẳng?
Gánh nặng của người Phương Tây
Trong phần Gánh nặng của người Phương Tây: lý do những nỗ lực tài trợ phần còn lại đã thực hiện có quá nhiều điều bất cập mà lại ít tốt đẹp, William Eastery thực hiện một bước tiếp cận rất khác. Ông lập luận rằng bên cạnh thảm kịch nghèo đói toàn cầu còn có một thảm kịch khác đó là Phương Tây chi tiêu 2.3 nghìn tỷ cho viện trợ trong 5 thập niên qua mà sự cùng cực thì vẫn còn, rằng “có quá nhiều lòng trắc ẩn ý nghĩa lại không mang đến kết quả gì cho người nghèo.” Phê phán của ông không đơn thuần là phung phí tiền của điều mà đáng lý nên được sử dụng có hiểu quả hơn, nhưng phần lớn kế hoạch của Phương Tây đều là tàn dư của chủ nghĩa thực dân, thường mang tính phản tác dụng, và thường thổi phồng tác động của sự cùng cực. Easterly phân biệt giữa “những người lên kế hoạch” là những người vạch ra tầm nhìn vĩ đại nhưng lại thực hiện không hiệu quả, với “những người tìm kiếm” là những người đi tìm giải pháp thành công cho những vấn đề cá nhân nhờ vào việc thửa nghiệm và sai, qua đó nhận thấy là nghèo đói toàn cầu không phải là vấn đề riêng lẻ có một giải pháp khoa học duy nhất. Easterly cho Sachs là người lên kế hoạch với một kế hoạch to lớn, dù cho Sachs từ chối trách nhiệm.
Những nhà tìm kiếm thì không có kế hoạch vĩ đại nào và chỉ tâm trung vào những kết quả nhỏ bé và thực dụng mà thôi. Việc tìm kiếm giải pháp khả thi cho từng trường hợp và thường hoạt động đưới cấp đọ chính sách quốc gia, những nhà tìm kiếm là những doanh nhân xã hội và những tổ chức phi chính phủ đang cố đạt được chút chút mục tiêu khiêm tốn, như việc lập ra những khoản vay nhỏ cho các doanh nhân trong làng, hoặc phân phát màn để loại bỏ bệnh sốt rét ở quốc gia Châu Phi, Malawi.
Easterly chỉ trích các nhà lên kế hoạch bởi ông nhạy cảm với cách thế mà chính sách Phương tây thực hiện thường là chiêu bài cho tư lợi chính trị, và viện trợ nước ngoài thường lọt vào túi những chính quyền tham nhũng. Tình trạng trì trệ của các nước nghèo đói nhất hiện nay là phải làm nhiều điều phải làm dành cho những chính quyền tội tệ hơn là làm cho bẫy nghèo. Các quốc gia nhận số lượng viện trợ nhiều lại không có khả năng phát triển xét về mặt kinh tế hơn những quốc gia nhận tài trợ ít.
Tiên lượng của Easterly về những giải pháp “chắp vá” từ giữa lên. Xét thấy rằng không ai có thể biết trọn vẹn về tính phức tạp của sự cùng cực, và rằng cũng chẳng có một cách thực nào để phát triển kinh tế, “chỉ có một sự lẫn lộn từ dưới lên giữa những định chế xã hội và quy tắc cần thiết cho thi trường thì công hiệu những người ngoài Tây Phương và những nhà lên kế hoạch không có khái niệm về việc làm sao tạo ra những quy tắc và định chế này.” Mặc dù thì trượng có thể giải quyết nhiều vấn đề cho sự phát triển, nhưng cũng cần có những quy tắc để hạn chế sự tư lợi và hám lợi. Vậy chính xác những quy tắc đó là gì, và làm sao để phát triển là những điều cụ thể mà những nhà tìm kiếm phải giải quyết được.
Easterly còn chỉ trích tác động của viện trợ nước ngoài. Không những nó kém và thiếu hiệu quả, mà nó còn làm trầm trọng những hệ lụy của việc tham nhũng bằng việc làm lợi cho những tay trong hàng ngũ chính trị là những người chống đối việc cải tổ dân chủ. Những nguồn lợi tức từ viện trợ nhiều thì làm cho các chính phủ quốc gia trở nên tồi tệ hơn, thậm chí gây ra những cản bước cho nền dân chủ vào phần thứ ba cuối của thế kỷ XX. Điều trái ngược là những chính phủ tồi có thể phá hoại những chương trình viện trợ có chủ đích tốt bằng việc lần làm thất bại. Những tổ chức Phương Tây như IMF có thể hỗ trợ cho những chính phủ yếu kém bằng việc mở rộng tín dụng cho họ, lịch sử tại Haiti đã chứng minh điều đó.
Ngoài câu hỏi thực tế về việc liệu việc viện trợ có làm giảm bớt hay lại làm trầm trọng hơn ảnh hưởng của nghèo đói, và cuộc tranh luận liệu rằng Sachs phải là người lên kế hoạch hay không đều dựa trên những câu hỏi đạo đức về trách nhiệm. Việc tham gia hợp lý và có trách nhiệm là làm sao? Trong khi chủ nghĩa thực dân thường bị xem là biểu hiện của sự khai thác Tây Phương, thì nó cũng có thể được coi là biểu hiện của chủ nghĩa vị tha sai lầm. Nhiều “nhà lập quốc” và “kỹ sư xã hội không tưởng” có xu hướng vị tha mạnh mẽ điều có thể mang lại những thành tựu về kinh tế quan trọng. Tuy vậy, một khuynh hướng thiên về việc phổ biến cho rằng “sự tự tin thái quá của những quan chức, việc lên kế hoạch từ trên xuống có tính áp chế, kiến thức thiếu văn hóa về những hoàn cảnh địa phương, và chút ít phản hồi của dân địa phương về điều đã thực hiện” làm lên một quan điểm là “người Tây Phương biết hết.” Sự nhạy cảm cao độ đối với những vấn đề đạo đức của tư duy thực dân chứng tỏ cho thấy rằng chủ nghĩa gia trưởng thường loại trừ mối quan hệ hợp tác và bình đẳng, một tình cảm đạo được thì không thể bị gạt sang bên cách cẩu thả. Người ta phải thận trong không sử dụng lối suy diễn “kẻ ban phát” tự do qua trớn và để tránh những “dự án xây dựng xã hội không tưởng” mà Karl Proper đã lo sợ cách đây nửa thế kỷ. Phê bình của Easterly là nỗ lực tạo ra những khoảng không về trí tuệ tự do trong đó những giải pháp lâu dài có nhiều khả năng trồi phát nhất.
Tuy vậy, cùng với những phân tích xã hội, những nghiên cứu về nghèo đói tại những trường đại học Vinh Sơn Công Giáo cũng phải ý thức những giá trị nền tảng và những học thuyết xã hội là một phần của nỗ lực đó. Một bước tiếp cận phải trung thành với di sản Vinh Sơn Công Giáo cộng thêm với một chút bổn phận khác đề giảm bớt nghèo đói: là bổn phận tham gia và đối thoại với người nghèo với một tinh thần bình đẳng. Như thế, một thách đố đặc biệt nảy sinh: làm sao người ta có thể tiếp cận với vấn đề nghèo đói toàn cầu trong cách thế toàn tâm, hợp lý và có trách nhiệm, mà lại thêm vào đó việc tôn trọng phẩm giá, tự chủ và sáng kiến của những người sống trong cảnh cùng cực?
Viện trợ trong học thuyết xã hội Công giáo
Nguyên tắc của việc viện trợ trong học thuyết xã hội Công Giáo sẽ cung cấp một khuôn mẫu để giải quyết một số vấn đề về đạo đức được đề ra trong cuộc tranh luận giữa Sachs và Easterly. Là một nguyên tắc nên nó là bước tiếp cận chung chung hơn là cá biệt, nhưng nó không phải là một bản thiết kế cho đời sống xã hội hoặc là dự án xây dựng xã hội không tưởng. Thay vào đó, nó cung cấp cách danh mục để xác định những điều kiện cần cho con người phát triển và những điều kiện làm cản sự năng động trong tiến trình sáng tạo. Chính vì lẽ đó, nó mang cả hai hai cực vừa tích cực vừa tiêu cực. Nguyên tắc viện trợ giúp cho việc phân định đạo đức điều hướng ma trận phức tạp của những trách nhiệm.
Việc phát biểu chính thức đầu tiên về nguyên tắc viện trợ nói đến trong Quadragesimo Anno được viết năm 1931 của đức giáo hoàng Pio XI. Tuy nhiên, những chủ đề cơ bản lại tiềm ẩn trong giáo huấn xã hội Công giáo đã từ lâu. Trong mục 79, đức giáo hoàng Pio XI sử dụng cụm từ Subsidiarii oficii principium (“nguyên tắc về chức năng của viện trợ”) để miêu tả mối quan hệ đích đáng giữa những phẩm trật cao thấp của xã hội. Từ Latin subsidium không mang ý nghĩa tiêu cực ngay từ bản chất, nhưng Cicero, Ovid và Caesar sử dụng theo nghĩa quân đội để nói đến một cách thức mà việc phòng thủ tuyến hai hoạt đọng như một phương tiện dự phòng hỗ trợ tiền tuyến. Những lập luận chung chung được nêu rõ trong Quadragesimo Anno có một mối tương quan chặt chẽ với chủ nghĩa liên bang của Thomas Jefferson và Abraham Lincoln, ủng hộ tuyên bố của Đức Giáo Hoàng Pio XI, đó là: “nguyên tắc cơ bản của triết lý xã hội.” Mặc dù tính logic (hợp lý) của việc viện trợ có những tiền đề căn bản và những điểm tương đồng trong triết lý xã hội thế tục, cách đặc biệt trong suốt cuộc hình thành Liên Minh Âu Châu, mà tôi sẽ lược bỏ những điều đó ở đây vì lý do làm ngắn gọn và bởi bản chất của nguyên tắc tự thân nó xuất phát từ học thuyết xã hội Công giáo.
Mặc dù những nguồn khác, đặc biệt là các thông điệp của giáo hoàng có những xem xét kỹ lưỡng và sắc bén hơn, cách diễn đạt ngắn học về nguyên tắc có thể thấy trong các phần từ 1883 đến 1885 của sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Sách Giáo lý xác định ba lĩnh vực riêng biệt nhưng lại có tương liên về một điểm nhấn đó là có chung việc tổng hợp nguyên tắc viện trợ: không tự mãn, trao quyền và hợp tác đa nguyên.
Không tự mãn
Nguyên tắc không tự mãn diễn tả chức năng tiêu cực hoặc cấm cản của việc viện trợ. Phần 1883 xác điện mối lo về “sự can thiệp quá trớn” của nhà nước, khiến đe dọa cả quyền tự do cá nhân lẫn sáng kiến. Mối lo ngại của Đức Giáo Hoàng về việc nhà nước xâm phạm vào những lĩnh việc ngoài khả năng và trách nhiệm của họ kéo dài đến tận thời kỳ đầu của học thuyết xã hội Công giáo. Ví dụ, những lá thư của cá giáo hoàng giai đoạn tiền Leonine (1740-1877) diễn tả mối lo ngại nhà nước xâm phạm đến các lãnh vực của Giáo hội và sự đàn áp của chính phủ trên dân chúng. Nỗi lo sợ của Giáo Hoàng xuất hiện trước Cách Mạng Pháp khi những nhà lãnh đạo Công Giáo Roma phát triển những cấu trúc Giáo hội do nhà nước kiểm soát và trục xuất Dòng Tên ở nhiều quốc gia Châu Âu. Từ việc tước đoạt tài sản của Giáo hội đến tích cực phá hoại những tổ chức bác ái lâu đời, những kế hoạch của nhà nước dành rất ít chỗ cho Giáo hội hoặc tự do đích thật cho dân Công Giáo.
Những lập trường chống giáo sĩ cũng được những nhà chủ nghĩa xã hội thực hiện tương đương với tội trộm cắp tài sản và chiếm đoạt quyền và trách nhiệm của Giáo hội. Những lá thư thời Leonine (1878-1958) đã chia sẻ cho biết nhiều mối quan tâm của những vị tiền nhiệm, nhưng kinh nghiệm của những nước cộng sản và chủ nghĩa phát xít toàn trị đã làm trầm trọng hơn vấn đề. Đức Pio XI đã sự dụng hạn từ “chủ nghĩa khủng bố tập thể” để nói đến việc đàn áp của các hiệp hội công nhân và những hoạt động xâm phạm khác của nhà nước. Về lĩnh vực kinh tế, các giáo hoàng cũng diễn tả mối lo ngại về “rào cản thương mại nhân tạo” và việc đánh cao thuế má trên những thứ khác nữa.
Những lo ngại của Giáo Hoàng về việc xâm phạm từ nhà nước không chỉ là lời đề nghị đơn giản cho việc tự do tôn giáo. Sự can thiệp của nhà nước vào đời sống nội bộ trong các cộng đồng trật tự thấp hơn hẳn có vấn đề bởi vì việc đảm nhận cách nhiệm vụ và chức năng tốt hơn nên được thực hiện bởi những cộng đồng trật tự thấp hơn, và bởi vì nó lấn quyền và trách nhiệm của họ. Những hành động đó xé nát bản chất hợp tác và cộng tác của công ích. Khi nhà nước áp đặt quyền lực và trách nhiệm từ cồng đồng cấp thấp, nó tước đoạt khỏi những cá nhân ý nghĩa trung tâm của việc họ làm, đó là “đóng góp cho sự thịnh vượng của cộng đồng lớn hơn.” Mục 1885 diễn tả mối quan tâm này với việc chỉ ra rằng việc viện trợ bị chống lại tất cả các hình thức chủ nghĩa tập thể. Theo cách giải thích của Daniel Finn về Centesimus Annus, thì khía cạnh tiêu cức của viện trợ được diễn tả rõ nhất là không tự mãn, trong đó cơ quan thẩm quyền cao hơn không nên lấn quyền và trách nhiệm của cá nhân hoặc tổ chức trung gian đóng góp cho công ích. Nhưng nước nên xen vào “chỉ những sáng kiến vượt trên khả năng cá nhân và những nhóm tư đang hoạt động độc lập mà thôi.”
Trao quyền
Những chức năng tích cực của viện trợ có hai mặt, được thể hiện dưới dạng những nguyên tắc trao quyền và hợp tác đa nguyên. Phần 1884 sách Giáo lý sử dụng lối thần học đối với việc trao quyền: “Thiên chúa không muốn dành cho mình tất cả quyền hành” và vì thế “Ngài ủy thác cho mọi thụ tạo chức năng mà nó có thể thực hiện, theo khả năng trong bản chất của mình.” Việc trao quyền là mặt trái của sự tự mãn, trong đó chính phủ tạo ra cách tích cực những điều kiện thuận lợi đưa đến “nhiều cơ hội đối với việc làm và nguồn của cải vật chất. Vì phát triển tích cực có thể và hầu như thường xảy ra, xảy ra từ dưới lên, mà nhà nước nên ủng hộ những cộng đồng cấp thấp “khi họ cần” và giúp để “phối hợp hoạt động của mình với hoạt động của những cộng đồng còn lại trong xã hội.” Do đó, chính phủ có bổn phận đạo đức tích cực nhằm bảo vệ nhân quyền và đảm bảo rằng những điều kiện tối thiểu của phẩm giá con người khiến ai cũng được đáp ứng. Việc đảm bảo như vậy không có nghĩa là nhà nước là tác nhân duy nhất hoặc đầu tiên trong việc đảm bảo.
Các giáo hoàng giai đoạn Leonine (1878-1958) lập luận rằng nhà nước có trách nhiệm đặc biệt nhằm theo sát “những lợi ích của người nghèo,” bao gồm nhà ở, y phục, chăm sóc sức khỏe, và việc làm. Từ ngữ công bằng xã hội, lần đầu tiên được đức giáo hoàng Pio XI giới thiệu, ngài đề xuất nhà nước có trách nhiệm “hỗ trợ” (theo nguyên nghĩa Latin nghĩa là viện trợ) và không chỉ đơn thuần là ngăn cản những hành vi tự mãn. Cùng với mối lo của giáo hoàng về quyền lực chính trị của đất nước, cũng còn có mối quan tâm khác về “những quan niệm sai lầm về luật kinh tế phi đạo đức và tư lợi hẹp hòi. Đâu đó ở giữa xâm phạm của nhà nước và nền kinh tế “laissez faire et laissez passer” dựa trên vai trò tích cực nhưng lại giới hạn của nhà nước, điều mà những hành động tích cực nhà nước thực hiện đều đa dạng và theo bối cảnh, miễn sao lợi ích của người nghèo được cung ứng.
Hợp tác đa nguyên
Chức năng tích cực thứ hai của viện trợ là thúc đẩy hoạt động sáng tạo nhằm phát triển nhiều chiều kích của đời sống cá nhân và xã hội. Mục 1885 sách Giáo lý miêu tả chức năng tích cực của viện trợ là chức năng làm “hài hòa mối tương quan giữa cá nhân và xã hội.” John Coleman lập luận rằng viện trợ là việc “xét về căn bản, là một lời cầu xin cho chủ nghĩa đa nguyên,” ở đâu có chủ nghĩa đa nguyên ở đó có sự tham gia và hợp tác. Lịch sử về viện trợ gồm sự thừa nhận ngày càng tăng về tầm quan trọng của những cơ quan trung gian trong bất cứ học thuyết xã hội nào đối với sự thái quá của tập thể hoặc cá nhân.
Trong tư tưởng của hậu Leonine (1959-1989), cả ba nguyên tắc viện trợ đều thể hiện rõ: nhà nước có quyền và trách nhiệm tích cực để can thiệp vì công ích nơi lợi ích người nghèo, nhưng nó không được can thiệp quá mức và phải tìm kiếm xây dựng công bằng, bình đẳng khi phân phối hàng hóa thông qua việc hợp tác đa nguyên.
Trong phần Chúng ta nắm giữ chân lý, John Courtney Murray lập luận rằng nguyên tắc viện trợ khẳng định đặc tính hữu cơ của nhà nước thông qua chức năng hoạt động tự trị của nhiều “nhóm chính trị ăn theo.” Quyền tự do của cá nhân được bảo đảm nhờ vào các cơ quan làm trung gian giữa con người và nhà nước: đó là gia đình, cộng đồng địa phương, nghề nghiệp, nhóm nghề nghiệp, nhóm ngôn ngữ văn hóa thiểu số v.v. Điều hoàn toàn chính xác là sức mạnh của cơ quan trung gian phủ nhận nhiều sai sót của nhiều học thuyết xã hội: sự đối lập sai lầm giữa cá nhân và nhà nước đã xuất hiện trong cuộc Cách Mạng Pháp, chủ nghĩa nhất nguyên toàn trị đã chiếm đoạt quyền con người và chủ nghĩa nguyên tử tự do loại bỏ đi bất kỳ biện pháp kiểm soát chính trị vì công ích.
Viện trợ cũng thể hiện rõ trong thế giới quan của những nhà hoạt động xã hội như Dorothy Day người tuyên xưng trung thành với một số nguyên tắc của chủ nghĩa vô chính phụ trong cuốn tự thuật của bà Nỗi cô đơn da diết. Bà bị thu hút bởi suy nghĩ của Prince Kropotkin nhà khoa học trở thành nhà thám hiểm Nga, người phát hiện thấy các hiệp hội nam giới tự nguyện nhỏ có ích hơn nhiều so với “trung đoàn quân đội” khi nói về việc khám phá khoa học và khám phá. Khi nhìn lại những tổ chức thời trung cổ, Kropotkin hình dung ra sự hợp tác giữa những hiệp hội tự nguyện nhỏ vượt thoát ra ngoài những cách thức che đậy của chính phủ. Là người đồng sáng lập Phong Trào Công Nhân Công Giáo, ý thức cá nhân của Day về ngành nghề kết hợp với thiên hướng của cô đối với tổ chức trung gian và sự hợp tác tự nguyện, cuối cùng đạt được đỉnh cao trong việc đáp ứng được một cách hiệu quả cho nhu cầu của người nghèo mà xưa giờ chưa được đáp ứng. Day không dựa vào cũng chẳng mong đợi nhà nước quan tâm đến người nghèo trong cộng đồng của mình mặc dù cô là người lên tiếng chỉ trích những chính sách bất công. Thay vào đó cô làm việc tại các Nhà Tiếp Đón địa phương.
Ba khía cạnh của viện trợ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và hành động có trách nhiệm cho lợi ích người nghèo. Với nguyên tắc không tự mãn, nó tìm cách kiềm chế những hoạch định che đậy về quyền lực và những dự phóng xây dựng xã hội ấu trĩ vốn thường gây họa. Với nguyên tắc trao quyền, nó tìm cách phát trỉnh khả năng và chức năng của tất cả các thành viên xã hội nhằm phục vụ cho sự thiện lớn hơn. Với nguyên tắc hợp tác đa nguyên, nó tìm cách thúc đẩy ý thức chia sẻ cộng đồng. Nguyên tắc đóng vai trò là lời nhắc nhở liên tục về việc công ích vượt trên chính sách công và tất cả thành phần xã hội được mời gọi tham gia vào việc thay đổi xã hội.
Nguyên tắc viện trợ là một nguyên tắc thần học, nghĩa là một phản ánh kinh nghiệm trong ánh sáng của Thánh Kinh và Thánh Truyền. Trước khi phát biểu chính thức về của nguyên tắc trong Quadragesimo Anno, thì nó đã được gói ghém trong di sản của tác phẩm của Frederick Ozanam rồi.
Di sản của Frederick Ozanam
Frederick Ozanam không chỉ là mẫu gương đức tin trong bậc sống giáo dân Công giáo làm việc tại một trường đại học, ông còn là mẫu mực cho các học giả muốn theo đuổi đời sống trí thức trong việc phục vụ người nghèo. Ozanam là một nhà tri thức đáng nể: vào độ tuổi 26, ngài nhận bằng tiến sĩ luật và văn học tại đại học Paris. Ngài là người sáng lập Hiệp Hội Thánh Vinh Sơn vào năm 1833, khi ngài chỉ mới 20 tuổi đã hết lòng dấn thân giúp đỡ những cảnh đói nghèo mà cá nhân ngài tiếp xúc. Bằng việc dựa trên truyền thống luật tự nhiên Công giáo dưới ánh sáng kinh nghiệm bản thân, ngài đã đi tiên phong trong khái niệm trả lương tự nhiên là điều mà cuối cùng trở thành nền tảng cho khái niệm về luật lương tối thiểu và Đạo Luật Tiêu Chuẩn Lao Động, được ban hành trong thời kỳ Chính Sách Mới. Ba khía cạnh trong di sản của ngài rất phù hợp cho cuộc thảo luận về các phương pháp nghiên cứu nghèo đói tại trường đại học Công Giáo Vinh Sơn: sự biến đổi cá nhân, những kiến thức đến từ việc biến đổi cá nhân, và những tác động theo hướng thực tiễn của viện trợ.
Tiếp xúc với người nghèo
Nguyên tắc nổi bật nhất của Hiệp Hội Thánh Vinh Sơn mà Ozanam đã giúp lập ra là sự nhấn vào sự tương tác mang tính cá nhân và trực tiếp với người nghèo, trái ngược với “việc điều hành những chương trình khuyết danh và quan liêu,” điều nhấn mạnh là các thành viên phải viếng thăm trực tiếp những người mà họ đang hỗ trợ. Việc gặp gỡ trực tiếp là một phần của tiến trình biến đổi, nó mang lại ý nghĩa tối hậu cho công việc của một người và tạo nên bối cảnh cho cuộc gặp gỡ với “Đức Kitô khổ nạn.” Đang khi đặc tính của Hiệp hội hiển nhiên là quy Kitô, thì có một cái nhìn triết học quan trọng đối với nguyên tắc gặp gỡ; đó là, công việc có một ý nghĩa và mục đích tròn đầy hơn khi hiệp hội phục vụ những con người bên lề xã hội. Làm việc vì người nghèo, trong hoàn cảnh này, thật giống với việc làm thỏa mãn sự trông ngóng trong công việc của con người vốn mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc, giống như việc phục vụ. Ozanam và những người bạn của mình thường xuyên đem củi và than đến cho người nghèo bởi vì ánh nhìn về một “nước Pháp Tái Sinh” quả xa vời và không tưởng. Ngài không nhắm đến tổng quát hóa việc xóa đói giảm nghèo, nhưng chỉ tìm ra phương cách cải thiện nỗi khổ của cá nhân. Bởi vì quan niệm của ngài được gắn liền trực tiếp với người nghèo, nên Ozanam có một quan điểm độc đáo đã định hình cho sự đấu tranh của ngài chống lại bất công mang tính cấu trúc. Mặc dù ngài có một dấn thân mang tính tri thức cho khái niệm Công giáo về công ích, nhưng chính cuộc gặp gỡ trực tiếp với người nghèo lại định hình cho cuộc đấu tranh chống lại bất công mang tính cấu trúc vì người nghèo của ngài. Do vậy, cuộc gặp gỡ trực tiếp cũng là một sự dấn thân có phương pháp.
Ở với người nghèo: một khía cạnh cần thiết
Nước Pháp bị chia cắt vào thời của Ozanam. Hầu hết giới tinh hoa Công Giáo Pháp không gắn bó với quần chúng nghèo, mà theo phe bảo hoàng. Ozanam tin rằng người nghèo là đồng minh thực sự của Giáo hội, và tầng lớp trung lưu đã phản bội lại tầng lớp lao động trong cuộc cách mạng 1830. Bởi cuộc gặp gỡ trực tiếp với người nghèo, ngài lập luận rằng lương tự nhiên “không phụ thuộc vào bất cứ công thức định lượng, máy móc cụ thể nào cả,” mà hơn thế nó phụ thuộc vào nhu cầu linh động của người nghèo đó là: nhà ở, giáo dục, và thực phẩm. Ozanam tin chắc việc làm là phương thức cơ bản để rồi người ta áp dụng khả năng của mình làm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu. Ngài thấy rằng tiền lương tự nhiên có lẽ là một công cụ quan trọng nhất để chống nghèo đói. Kể từ lúc công việc được trao cho người nghèo đã làm đáp ứng nhu cầu của chính họ, Ozanam đã ủng hộ mạnh mẽ quyền của người công nhân nhằm thành lập công đoàn.
Bởi vì những cuộc gặp gỡ với người nghèo và kết quả là những hiểu biết sâu xa mà ngài rút ra được, Ozanam thích thú với học thuyết xã hội: khởi đầu từ gia đình, cá nhân thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm, đặt lợi ích cá nhân dưới lợi ích lớn hơn của những tập đoàn xã hội khác nhau. Dấn thân của ngài đối với tư hữu không phù hợp với chủ nghĩa xã hội, tuy niềm tin của ngài vào tập đoàn xã hội chống lại lòng tham của chủ nghĩa cá nhân laisser-faire (để cho nó được).
Thật không may, Ozanam đã không sống để chứng kiến nhiều người và những biến cố mà công việc của ngài giúp truyền cảm hứng. Ngài đã không đọc thông điệp xã hội quan trọng đầu tiên Rerum Novarum năm 1891, một tài liệu căn bản cho giáo huấn xã hội Công giáo. Ngài chưa từng gặp Peter Maurin hoặc Dorothy Day, người sáng lập phong trào Công Nhân Công giáo tại New York vào những năm 1930. Tuy thế, di sản của Ozanam không chỉ giới hạn ở những cuộc đấu tranh tiền lương tự nhiên; trên thực tế, một số phương pháp sáng tạo để xóa đói nghèo lại lặp lại phương pháp của ngài.
Những phương pháp xóa đói nghèo hiện đại
Công việc của Muhammad Junus và Grameen Bank là một trong những minh họa tốt nhất về một phương pháp xóa nghèo đói trung thành với di sản của Frederick Ozanam. Việc lựa chọn “tầm nhìn của con sâu” thay vì “tầm nhìn của loài chim” Yunus cảm thấy mệt mỏi với việc giảng dạy lý thuyết to tát về kinh tế đang khi một trong những nạn đói khủng khiếp nhất ở Bangladest trong lịch sử gần đây khiến cho nhiều người chết đói trên đường. Qua những cuộc chuyện trò kéo dài với những phụ nữ nghèo ở Jobra, Yunus khám phá những tác động của những hoạt động ngân hàng độc quyền làm cản rất lớn đối với phúc lợi kinh tế, và ông đã mở ra một cách cho những phụ nữ vay tiền với số lượng ít mà họ là những người không cần có tài sản thế chấp. Kể từ khi thành lập, tài chính vi mô là một phương thức thay thế cho ngân hàng chính thức đã góp phần rất lớn vào việc giảm bớt tác động của cảnh khốn cùng. Yunus khám phá ra việc cho phụ nữ vay ắt hẳn chiếm ưu thế là cách tốt nhất để trao quyền trong gia đình. Giải Thưởng Nobel Hòa Bình năm 2006 chứng thực giá trị và sư phổ biến của phương pháp như vậy. Tuy nhiên, có điều còn quan trọng hơn cả sự phổ biến là sự hiểu biết căn bản về tài chính vi mô mà tự thân nó xuất hiện từ việc gặp gỡ cá nhân với người nghèo. Có rất ít, nếu có, trong “thuyết đại kinh tế” đã trang bị cho ông giải quyết trướng ngại căn cốt như vậy. Ông không bận tâm đến những phạm trù khái niệm hay nhất nhằm định lượng đói nghèo ở phạm vi toàn cầu – ông chỉ đơn giản lắng nghe những phụ nữ ở Jobra. Cả Ozanam và Yunus đều mạo hiểm vượt ra ngoài những hội trường của khung trường đại học để làm việc với người nghèo và mang lại ý nghĩa cho những nỗ lực tri thức của họ.
Nỗ lực thất bại của Tập Đoàn Nước Quốc Tế và sự thành công của KickStart, một tổ chức phi lợi nhuận thiết kế và bán những sản phẩm nông nghiệp công nghệ thấp là một minh họa khác sống động cho sự phát triển từ dưới lên. Được thành lập vào năm 1984 bởi một nhóm kỹ sư trường đại học Princeton nhằm cung cấp nước sạch cho các nước đang phát triển, Tập Đoàn Nước Quốc Tế đã phát triển hệ thống năng lương mặt trời để phân phối nước. Vào năm 2000 họ lại thành lập 17 đại lý tại các nước đang phát triển và được hưởng các hợp đồng độc quyền. Tuy nhiên, chi phí cho dự án cơ sở hạ tầng lớn, cùng với sự bấp bênh và bản chất tham nhũng của các đối tác chính phủ, cuối cùng đã đưa công ty hầu hết tập trung vào thị trường Hoa Kỳ ổn định hơn. Trái lại, KickStart là một liên doanh có trụ sở tại Kenya tập trung vào các giải pháp phạm vi nhỏ cho các vấn đề tưới tiêu bằng việc bán những ông nghệ tưới nhỏ giọt trực tiếp cho nông dân với giá rẻ hơn 100 đô la. Bằng cách giúp những người nông dân trở thành “doanh nghiệp phú nông” với công nghệ tưới tiêu bằng bơm chân giá rẻ, KickStart đã giúp tạo ra 52 triệu đô la lợi nhuận và tiền lương mới. Trong khi Tập Đoàn Nước Quốc Tế có những mục tiêu lớn, thì chính trị đaiạ phương thối nát đã cản trợ việc triển khai công nghệ mới của họ. Bằng cách hoạt động dưới sự giám sát của các đại chính sách và những rào cản quan liêu, KickStart đã có những đóng góp tích cực, gia tăng trong cuộc sống của nhiều người nông dân Kenya, điều mà Tập đoàn Nước Quốc tế không thể hoàn thành mặc dù đã tích lũy được những nguồn tài nguyên quan trọng.
Việc hợp tác và chủ nghĩa đa nguyên là nền tảng cho việc trao quyền cho những cá nhân và những cơ quan trung gian. Những nỗ lực thành công trong việc xóa nghèo liên tục minh chứng tầm quan trọng của cả hai nguyên tắc: Hãy lấy Liên Minh Các Chương Trình Cây Trồng Bền Vững (STCP) làm ví dụ. Liên minh cải thiện việc phát triển kinh tế của người nông dân và sự bền vững môi trường nhờ vào một mạng lưới các kỹ sư công nghiệp, tất cả họ đều quan tâm đến việc trồng trọt và tiếp thị ca cao. Phạm vi thành viên từ Cơ Quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cho đến các thành viên của Tổ Chức Ca Cao Thế Giới trong đó có cả Công Ty Hershey, Sản Phẩm Nestle, và Thực Phẩm Kraft. Vì ca cao là loại hàng hóa cây trồng quan trọng nhất ở Tây Phi, nên nó mang lại kế sinh nhai cho hàng triệu hộ nông dân quy mô nhỏ. Tuy nhiên, nạn phá rừng, bệnh nấm và côn trùng đã phá hoại một phần ba mùa màng hàng năm, việc thiếu hiệu quả trầm trọng trong hệ thống thị trường đã cản trở kế sinh nhai của những tiểu nông. STCP không chỉ cải thiện chất lượng và nguồn hàng hạt ca cao sẵn sàng nhờ các phương pháp đa dạng sinh học che cây, mà nó còn nâng cao mức sống của những tiểu nông gia nhờ vào môi trường thương mại công bằng hơn. Mãi cho đến năm 1998, cuối cùng những nhà sản xuất ca cao mới bắt đầu nhận ra một số hậu quả thảm khốc tiềm tàng khi một bài báo nghiên cứu xác định những vấn đề lớn trong khâu cung ứng ca cao. Sau những cuộc nghiên cứu sâu rộng, USAID đã triển khai giai đoạn thử nghiệm để giải quyết mối lo chung này. Bằng việc tập trung vào đào tạo nông dân và liên kết nông dân với thị trường nhờ các tổ chức sản xuất, STCP đã đưa ra những giải phải khả thi cho một số vấn đề mà trước đây ngành đã gặp phải. Tất cả các thành viên trong liên minh đã nhận thấy tương lai ngành kinh doanh sô cô la được liên kiết trực tiếp với tương lai của những hộ dân địa phương trồng ca cao. STCP không phải là một dự án xã hội lớn, nhưng là sự tham gia hợp tác của nhiều tổ chức đa ngành mà tất cả đều chia sẻ khát vọng muốn trao quyền cho các hộ dân địa phương.
Những nghiên cứu về nghèo đói theo tinh thần Công giáo và di sản Vinh Sơn
Mặc dù những ví dụ cụ thể mà tôi đã nêu ra không phải chỉ là những phương pháp giảm nghèo, nhưng đó là những phương pháp có điểm tương đồng mạnh mẽ với Frederick Ozanam và nguyên tắc viện trợ. Bởi vì nghèo đói toàn cầu đã nhận được sự quan tâm ngày càng cao từ MDGs 2000, nên nhiều người đã mường tượng về một thế giới không có nghèo đói trong tương lai không xa. Nhiều người tin rằng việc đạt mục tiêu này chủ yếu là vấn đề tăng Những Văn Phòng Hỗ Trợ từ những quốc gia tài trợ; tuy vậy William Easterly rất hoài nghi điều này. Ông lập luận rằng những nhà nghiên cứu phục vụ người nghèo tốt hơn là những nhà lên kế hoạch. Dựa vào tranh luận mang tính học thuật về tính hiệu quả, nguyên tắc viện trợ và di sản mà Frederick Ozanam đề xuất đó là gặp gỡ cá vị, hợp tác đa nguyên giữa các hiệp hội trung gian và vai trò giới hạn của nhà nước tất cả đều góp phần vào tính ưu việt của phương pháp “Từ dưới lên.” Vì thế, di sản Vinh Sơn Công giáo đề xuất không phải tất cả những phương pháp nghiên cứu về đói nghèo đều như nhau.