SỐNG TINH THẦN CỦA THÁNH VINH SƠN PHAOLÔ TRONG NĂM THÁNH CỦA TU HỘI VÀ GIÁO HỘI

0
241

Năm 2025 sẽ là một năm đặc biệt đối với Tu hội Truyền giáo, vì đó là Năm Thánh của Tu hội Truyền giáo được diễn ra trùng với Năm Thánh của Giáo hội hoàn vũ. Hay có thể nói nôm na theo kiểu hán việt về Năm Thánh này là Song Hỷ lâm môn, có nghĩa là hai niềm vui cùng tới cửa một lúc. Năm Thánh của Tu hội, vì đó là thời điểm kỷ niệm 400 năm ngày khai sinh Tu hội Truyền giáo 17/04/1625, khi Thánh Vinh Sơn ký hợp đồng với bà Gondi để quy tụ các linh mục đồng chí hướng với ngài làm đại phúc tại các vùng nông thôn trong lãnh thổ của bà, cũng như các vùng nông thôn nghèo nàn khác.[1] Chủ đề cho Năm Thánh 400 năm của Tu hội được khắc họa theo hình ảnh “mặc lấy tinh thần của Đức Kitô” như cha Tổng quyền Thomas Marvic đã gởi đến toàn thể Tu hội.[2] Năm 2015 cũng là Năm Thánh thường lệ của Giáo hội  với chủ để năm thánh “Spes Non Confundit, Hy Vọng Không Làm Thất Vọng”, khi Năm Thánh được cử hành mỗi 25 năm, để trở thành dịp đặc biệt cho mọi Kitô hữu có dịp canh tân lại đời sống của mình.

Cho nên đây là một năm mà các anh em Vinh Sơn thuộc Tu hội Truyền giáo cảm nghiệm một bầu khí niềm vui nhân đôi của Năm Thánh trong đời sống ơn gọi Kitô hữu và ơn gọi Vinh Sơn của mình. Đó cũng là dịp để tạ ơn Chúa và nhìn lại lịch sử của Tu hội để các anh em đào sâu hơn đức tin và củng cố ơn gọi của mình trong một giai đoạn lịch sử quan trọng của Tu hội.

Liên quan đến các biến của Năm Thánh, trước hết chúng ta hãy nhìn lại lịch sử của các Năm Thánh đã diễn ra trong suốt đời sống của Thánh Vinh Sơn Phaolô. Kể từ Năm Thánh đầu tiên năm 1300 dưới thời Đức Giáo hoàng Bonifacio đến nay, Giáo hội đã cử hành 27 lần năm thánh thường lệ,[3] và còn rất nhiều các năm thánh ngoại thường khác đã được tổ chức trong Giáo hội. Trong suốt cuộc đời của Thánh Vinh Sơn Phaolô (1581-1660), các vị giáo hoàng kế tiếp đã công bố 26 Năm Thánh.[4] Trong số các Năm Thánh này trong cuộc đời của Thánh Vinh Sơn có 3 năm thánh thường lệ: là Năm Thánh 1600 dưới thời Đức Giáo hoàng Clemente VIII, Năm Thánh 1625 dưới thời Đức Giáo hoàng Urbano VIII, và Năm Thánh 1650 dưới thời Đức Giáo hoàng Inocente X, số còn lại là các Năm Thánh ngoại thường.

Năm thánh 1600: Năm Thánh được công bố bởi Tông sắc Annus Domini Placabilis ngày 19 tháng 5 năm 1599. Trong Năm Thánh này, Đức Giáo hoàng Clemente VIII đã nêu gương tốt bằng cách giải tội trong Tuần Thánh, quỳ gối leo lên Scala Sancta, phục vụ bữa ăn cho những người hành hương đến Rôma và ăn uống với 12 người nghèo của thành phố mỗi ngày để vinh danh 12 vị tông đồ. Tương tự như vậy, các hồng y đã từ bỏ việc mặc phẩm phục màu đỏ truyền thống của họ như một dấu hiệu của sự sám hối. Nhiều người đã đổ xô đến để giúp đỡ những nỗ lực mừng Năm Thánh của Đức Thánh Cha. Ví dụ, cộng đồng Do Thái ở Rome đã cung cấp cho ngài 500 chiếc khăn trải giường cho những người hành hương. Vào ngày 31 tháng 12 năm 1600, hơn 80.000 người đã tham dự lễ mở Cửa Thánh và hàng triệu người hành hương đã đến Rôma để dự Năm Thánh.[5] Về việc bác ái, mỗi tuần Đức Giáo hoàng cung cấp 50 scudi cho Hội bác ái Chúa Ba Ngôi để làm việc bác ái và chính cá nhân Đức Giáo hoàng đã dâng tặng 300,000 scudi để làm bác ái trong suốt năm thánh này. Vì sự đau ốm của Đức Giáo hoàng, nên năm thánh này đã bị trì hoãn lại một thời gian bế mạc cho đến ngày 31 tháng 12 năm đó. Hội bác ái Chúa Ba Ngôi đã giúp nơi trú ngụ cho 500,000 người và số người hành hương năm thánh năm đó ước lượng khoảng 3 triệu người, và ngày lễ phục sinh đã có 200,000 người về dự lễ tại vatican.[6]

Năm Thánh này cũng là năm mà Thánh Vinh Sơn được chịu chức linh mục tại Paris và sau đó người ta đã thấy ngài kể lại về cuộc hành trình của mình đến Roma, có lẽ cùng năm đó, để nhận ân xá của năm thánh[7] này như ngài nói: “Tôi đã thấy Đức Giáo Hoàng Clemente VIII, một người rất thánh thiện, thánh thiện đến nỗi ngay cả những kẻ dị giáo cũng thường nói, ‘Giáo hoàng Clemente là một vị thánh’.”[8] Và sau đó chính ngài cũng chia sẻ về cảm xúc của mình khi đến kinh thành muôn thủa của giáo hội, trong một lá gởi thư cho một người anh em khác cũng đến đấy:

 “Cuối cùng cha đã đến Rome, nơi người đứng đầu của Giáo hội lữ hành cư ngụ, nơi tìm thấy thánh tích của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô và của rất nhiều vị tử đạo khác đã đổ máu và dâng hiến mạng sống của các ngài cho Chúa Giêsu Kitô. Cha thật may mắn biết bao khi có thể bước đi như vậy trên vùng đất nơi có rất nhiều nhân vật vĩ đại và thánh thiện đã bước đi. Ý nghĩ này làm tôi cảm động rất nhiều khi tôi ở Rome ba mươi năm trước, mặc dù tôi bị đè nặng bởi tội lỗi của mình, nhưng tôi không thể cầm được nước mắt, khi nhớ về điều này.”[9]

Như vậy, việc hành hương của thánh Vinh Sơn về Roma là một kỷ niệm đẹp và khó phai trong tâm trí của mình khi hành hương đến trái tim của Giáo hội Công giáo Roma.

Năm thánh 1625: Vào ngày 29 tháng 4 năm 1624, với Tông sắc Omnes Gentes plaudite manibus, Đức Giáo hoàng Urbano VIII công bố Năm Thánh 1625. Vào ngày 28 tháng 1 năm 1625, ngài mở rộng Ân xá cho những người không thể đến Rôma, cũng như cho các tù nhân và người bệnh (Pontificia sollicitudo). Vào ngày 30 tháng 1, với thông điệp Paterna dominici gregis cura của Đức  Giáo hoàng, trước nguy cơ của bệnh dịch hạch đang đe dọa Rome, chuyến viếng thăm truyền thống tới Vương cung thánh đường Thánh Phaolô đã bị hủy bỏ vì lý do an toàn và được thay thế bằng chuyến viếng thăm nhà thờ trung tâm Santa Maria ở Trastevere. Ngoài ra, ngài ra lệnh rằng đối với cuộc hành hương truyền thống đến bảy Nhà thờ ở Rome, ba nhà thờ bên trong thành Roma (Santa Maria del Popolo, Santa Maria ở Trastevere và San Lorenzo ở Lucina) có thể được thay thế bằng những nhà thờ ngoại thành Roma (San Sebastiano, San Paolo và San Lorenzo). Khoảng nửa triệu người hành hương đã đến Rome vào năm đó. Đây là năm thánh thứ 12 của Giáo hội và cửa năm thánh được mở vào đêm Giáng sinh năm 1624. Và người ta ghi nhận rất ít khách hành hương nước ngoài đã đến năm thánh này.[10] Đây là một năm thánh đặc biệt cho tới thời điểm này vì chưa có vị giáo hoàng nào đã khai mở hai lần năm thánh thường lệ.[11]

Như vậy đây là một Năm Thánh đặc biệt liên quan tới Tu hội Truyền giáo, vì chính trong Năm Thánh này mà Thánh Vinh Sơn đã thành lập Tu hội Truyền giáo, mà cho đến hôm nay đã tròn 400 năm của sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho người nghèo. Để có được sự ra đời của Tu hội Truyền giáo, chính Thánh Vinh Sơn đã nhiều lần gởi thư thỉnh cầu lên Đức Giáo hoàng Urbano VIII để xin sự chuẩn nhận thành lập Tu hội.[12] Nhưng rồi sau đó chính Đức Giáo hoàng này đã chuẩn nhận sự thành lập trên của Tu hội qua sắc chỉ Salvatoris Nostri vào ngày 12 tháng giêng năm 1633.[13] Do đó Thánh Vinh Sơn đã chia sẻ về cảm xúc của mình khi đón nhận niềm vui này khi được tiếp tục thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô cho người nghèo. Điểm nổi bật của sứ vụ là mặc lấy tinh thần của Chúa Kitô theo như khuyến nghị của Thánh Phaolô (Rm 13:14) và sẽ luôn là một chiều kích năng động của ơn gọi và sứ mệnh của Tu hội:

“Vì vậy, Quy luật khẳng định rằng, để thực hiện điều này, cũng như để hướng tới sự hoàn thiện của chính mình, chúng ta phải được mặc lấy tinh thần của Chúa Giêsu Kitô. Ôi Đấng cứu độ! Hỡi các anh em! Thật là một điều quan trọng để mặc lấy tinh thần của Chúa Giêsu Kitô. Điều này có nghĩa là để lớn lên trong sự thánh thiện, hữu ích trong việc giúp đỡ người khác và phục vụ tốt hàng giáo sĩ, chúng ta phải nỗ lực noi gương sự hoàn hảo của Chúa Giêsu Kitô và cố gắng đạt được điều đó. Điều đó cũng có nghĩa là bản thân chúng ta không thể làm gì được trong vấn đề này. Chúng ta phải tràn đầy và sống động với tinh thần này của Chúa Giêsu Kitô.”[14]

Và đó chính là chủ đề của Năm Thánh mà chúng ta đang sống và cảm nhiệm cũng như cam kết dấn thân trong dịp 400 năm này.

Tâm tình này cũng sẽ được sống động và vững vàng hơn trong Năm Thánh này, khi các thành viên Tu hội được mời gọi mặc lấy tinh thần của Chúa Kitô, đấng là nguồn của niềm hy vọng. Trong phần nói về niềm hy vọng vững vàng của sắc chỉ Năm Thánh, Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng đã nhấn mạnh đến yếu tố này khi mọi kitô hữu được mời gọi tin tưởng và hy vọng trong chính công cuộc cứu độ của Chúa Kitô:

“Chúa Giêsu đã chết và sống lại là trung tâm đức tin của chúng ta. Chỉ với bốn động từ, Thánh Phaolô đã phát biểu ngắn gọn như sau để truyền đạt lại nội dung “cốt lõi” về niềm hy vọng của chúng ta: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.”[15]

Tương tự như thế, sử dụng hình ảnh cây nho của Thánh Gioan (x. Ga 15,5) Thánh Vinh Sơn đã khuyên nhủ các thành viên trong Tu hội của ngài: “Thiên Chúa đã ban một ân huệ lớn lao cho Tu hội khốn khổ, tầm thường này khi ban cho chúng ta niềm hạnh phúc được noi gương Ngài, vì giống như các nhánh được liên kết với nhau cây nho chúng ta tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô”[16] Như vậy Đức Kitô chính là nền tảng hy vọng mà Thánh Vinh Sơn đã tín thác ơn gọi của mình, cũng như Tu hội Truyền giáo của ngài, khi sống theo gương của Chúa Kitô trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho người nghèo.

Năm thánh 1650: Để đánh dấu Năm Thánh này, sắc lệnh Appropinquat Dilectissimi Filii được công bố ngày 4 tháng 5 năm 1649, bởi Đức Giáo hoàng Innocente X và ngài đã cho trùng tu vương cung thánh đường Thánh John Lateran bởi kiến ​​trúc sư nổi tiếng Borromini. Một điều mới lạ đã được đưa ra cho Năm Thánh này: ơn toàn xá được mở rộng đến các tỉnh của Bỉ và Tây Ấn nhờ Sắc lệnh Salvator et Dominus ngày 8 và 12 tháng 1 năm 1654. Khoảng 700.000 người hành hương đã đến Rôma, chủ yếu từ các khu vực xung quanh thành phố. Nhiều người theo đạo Tin lành cũng chuyển sang đạo Công giáo trong năm.[17] Trong năm thánh này các số tiền quyên góp được được dùng vào việc trang trí các nhà thờ hoặc sửa chữa. Đồng thời Hội bác ái Quý bà đã được thành lập trong thời gian này và đã quyên góp được 16, 582 scudi cùng với Hội bác ái Chúa Ba Ngôi phục vụ ăn ở cho 334,453 khách hành hương. Và Đức Giáo hoàng đã dâng cúng 11,944 scudi cho việc làm phúc.[18]

Trong năm thánh này, Thánh Vinh Sơn đã có hai lần gởi thư cho Đức Giáo hoàng để bày tỏ sự vâng phục của ngài dành cho vị cha chung của Giáo hội, cũng như báo cáo tình hình về sứ vụ rao giảng Tin Mừng mà Tu hội đang đảm nhận.[19]

Như vậy đó là các Năm Thánh thường lệ đã diễn ra trong đời của Thánh Vinh Sơn, ngoài ra chúng ta còn thấy ngài còn diễm phúc trải qua nhiều năm thánh ngoại thường kể từ khi sinh ra cho đến khi mất. Chúng ta sẽ lần lượt đọc lại các Năm Thánh ngoại thường đã diễn ra trong đời của Thánh Vinh Sơn Phaolô.

Năm Thánh ngoại thường đầu tiên thời Đức Giáo hoàng Xito V, năm 1585, kéo dài 14 ngày, đầu tiên cho thành Roma và sau đó cho toàn lãnh thổ Kitô giáo. Và ngài là vị giáo hoàng đầu tiên mở Năm Thánh cho năm lên ngôi của mình, để xin Chúa ban ơn trợ lực cho triều đại giáo hoàng của mình. Sau đó cũng đã có các vị giáo hoàng làm điều tương tự như Đức Giáo hoàng Pio VIII, Gregory XVI, Pio IX và Leo XIII.[20]

Năm Thánh ngoại thường thứ 14, được ban rộng cho dòng tên bởi Đức Giáo hoàng Xito V năm 1586 theo thỉnh cầu của Tổng quyền dòng Tên để xin Chúa chúc lành cho các nhà truyền giáo của dòng này đang làm việc ở Trung Quốc.

Năm Thánh ngoại thường thứ 15 năm 1588, vì sự đe dọa của sự dữ trong Giáo hội và Năm Thánh ngoại thường thứ 16 năm 1589, để cầu xin hòa bình cho nước Đức đang trong cuộc nội chiến.

Năm Thánh ngoại thường thứ 17 năm 1592 bởi Đức Giáo hoàng Clemente VIII, vào năm lên ngôi của mình để xin Chúa điều hành Giáo hội của ngài. Đức Giáo hoàng Clemente VIII cũng công bố Năm Thánh ngoại thường thứ 18 và 19 năm 1595 tại Hungary và tại Đức để bảo vệ đức tin công giáo và tạ ơn bình an đã tìm lại hòa bình. Năm Thánh ngoại thường thứ 20 được Đức Giáo hoàng Clemente VIII công bố tại Roma năm 1598, xin Chúa bảo vệ thành Roma khỏi mọi nỗi đau khổ do ngập tràn của sông Tiber.

Năm Thánh ngoại thường thứ 21 do Đức Giáo hoàng Phaolô V năm lên ngôi của ngài năm 1605. Và ngài cũng công bố thêm 4 Năm Thánh ngoại thường trong triều đại của ngài vào các năm 1606, 1608, 1617, 1620. Xin Chúa chúc lành cho Giáo hội đang bị bủa vây bởi sự dữ và dịch bệnh.

Năm Thánh ngoại thường thứ 26 và 27 được công bố bởi Đức Giáo hoàng Gregorio XV năm 1621 và Đức Giáo hoàng Urbano VIII năm 1623 trong năm lên ngôi của ngài để xin Chúa chúc lành cho triều đại mới. Năm Thánh ngoại thường 28 được tổ chức năm 1628 bởi Đức Giáo hoàng Urbano VIII, xin Chúa chúc lành cho Giáo hội đang bị bủa vây bởi sự dữ từ các phía. Và Năm Thánh ngoại thường thứ 29 được tổ chức vào năm 1629 bởi sự đe dọa của chiến tranh, dịch bệnh và nạn đói.

Năm Thánh ngoại thường thứ 30, 31, 32 được tổ chức vào năm 1630 và 1631 bởi cùng giáo hoàng Urbano VIII, tạ ơn Chúa cho khỏi nạn đói và dịch bệnh. Ba Năm Thánh ngoại thường kế tiếp trong các năm 1631, 1634, 1636 vì sự dịch bệnh lan tràn.

Năm Thánh ngoại thường thứ 36 được tổ chức năm 1644 do Đức Giáo hoàng Innocente X và ngài cũng công bố Năm Thánh ngoại thường thứ 37 năm 1648 để xin Chúa quan phòng cho những nhu cầu của Giáo hội.

Đức Giáo hoàng Alexander VII tổ chức Năm Thánh năm 1655 khi ngài lên ngôi. Và Năm Thánh ngoại thường thứ 39 năm 1656 vì sự tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ cũng như chiến tranh và dịch bệnh.

Như vậy chúng ta thấy có lẽ Thánh Vinh Sơn còn trải qua số Năm Thánh nhiều hơn con số như cha Udovic đề cập ở trên, tuy nhiên có những Năm Thánh đã diễn ra khi cha Vinh Sơn còn thơ ấu, thì nhận thức của ngài về điều này là chưa có và có thể sẽ chỉ thực sự ý thức về Năm Thánh kể khi ngài chịu chức linh mục năm 1600 như trong một dịp ngài đã nói: “Tôi đã biết nhiều Năm Thánh, nhưng có lẽ tôi chưa bao giờ hoàn thành chúng.”[21] Thánh Vinh Sơn cũng thừa nhận một điều thực tế là: “nhiều người nói về Năm Thánh, nhưng thực sự là không biết nó là gì.”[22]

Trong số những tài liệu của cha Pierre Coste, người ta còn thấy có hai buổi nói chuyện của cha Vinh Sơn dành riêng cho chủ đề Năm Thánh, đó là bài nói chuyện về Năm Thánh vào ngày 15 tháng 10 năm 1641 với các Nữ Tử Bác Ái.[23] Và một buổi nói chuyện khác cũng về chủ đề Năm Thánh vào ngày 18 tháng 12 năm 1656 cũng với các Nữ Tử Bác Ái.[24] Như vậy trong hai bài nói chuyện này, nếu đối chiếu với những kỳ Năm Thánh ở trên, thì chúng ta thấy chỉ có bài nói chuyện năm 1656 là được nói trong bối cảnh của Năm Thánh ngoại thường thứ 39 của Giáo hội. Còn Năm Thánh 1641 thì không được nói đến.

Tuy nhiên, trong bài nói chuyện của mình, Thánh Vinh Sơn nói năm 1641 là Năm Thánh, và điều này lại được Pierre Coste chú thích trong một dịp khác, khi trong lá thư Thánh Vinh Sơn gởi cho Thánh Louise năm 1642, thì Pierre Coste chú thích năm 1641 là Năm Thánh.[25] Và ở chỗ khác, ngài cũng nói đã có năm thánh năm 1636 và 1641.[26] Và trong lá thư này Thánh Vinh Sơn nhắc nhở Thánh Louise và các chị em về đợt tĩnh tâm dành cho Năm Thánh và nói sẽ có bài nói chuyện về chủ đề này trong thời gian gần. Đó là những gì chúng ta vừa nói ở trên. Như vậy có sự không thống nhất về Năm Thánh ngoại thường 1641!

Mở đầu bài nói chuyện về chủ đề Năm Thánh 1641, Thánh Vinh Sơn đã nói rằng: “Thưa chị em, buổi nói chuyện này không có mục đích nào khác ngoài việc hướng dẫn chị em vào Năm Thánh để khi biết đó là gì, chị em có thể có mong muốn đạt được nó cách tốt hơn. Tôi sẽ giải thích Năm Thánh, tại sao chúng ta có năm thánh, và phương tiện để đạt được.”[27]

Rồi sau đó Cha Vinh Sơn đã giải thích về hạn từ năm thánh, nguồn gốc, và đó cũng là năm ân sủng của Giáo hội. Thánh Vinh Sơn cũng nói rằng năm thánh được diễn ra mỗi một 100 năm một lần, điều này hoàn toàn phù hợp với tuyên bố của Đức Giáo hoàng Benifacio khi ngài khai mở năm thánh lần đầu tiên năm 1300.[28] Nhưng thực tế thì nó đã được diễn ra cách thường xuyên hơn, ngắn hơn và cuối cùng cách định kỳ là mỗi 25 năm một lần, ngoại trừ các năm thánh ngoại thường dành cho các dịp đặc biệt.

Trong bài nói chuyện này cha Vinh Sơn đã giải thích rất kỹ về những phương thức để đạt được những ân sủng được ban cho qua Giáo hội để có thể thăng tiến về mặt thiêng liêng hơn cho bản thân mỗi chị Nữ Tử Bác Ái. Trong đó ngài đề cập đến việc hoán cải bản thân, lãnh nhận bí tích giao hòa, an chay, hành hương đến các nhà thờ hoặc nơi thánh, cầu nguyện và nguyện gẫm…

Và vào buổi nói chuyện này, Thánh Vinh Sơn đã nói rõ ràng rằng:

“Bây giờ, các chị em thân mến, tôi cầu xin Chúa, Đấng đã truyền cảm hứng cho Đức Thánh Cha của chúng ta với ý tưởng mở ra cho chúng ta những kho tàng của Lòng thương xót của Chúa, hãy vui lòng chuẩn bị tâm hồn để đón nhận chúng. Xin tình yêu của Ngài đã kêu gọi chị em  thực hiện việc thánh thiện này ban cho chị em ân sủng để có được Năm Thánh thánh này và ban cho bạn sự đổi mới sức mạnh trong việc tuân thủ Quy luật của chị em! Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.”[29]

Trong bài nói chuyện vào năm thánh 1656, cũng mở đầu buổi nói chuyện, Thánh Vinh Sơn nói rõ về 3 mục đích chính của chủ đề Năm Thánh:

“Các chị em thân mến, chủ đề của nói chuyện này là Năm Thánh. Điểm đầu tiên liên quan đến những lý do chúng ta có để cống hiến hết mình cho Chúa, để giúp chúng ta có được Năm Thánh một cách xứng hợp; điểm thứ hai là phải làm gì để đạt được nó tốt; thứ ba là những trở ngại nào có thể ngăn cản chúng ta đạt được Năm Thánh.”[30]

Cũng giống như lần trước, Thánh Vinh Sơn giải thích về nguồn gốc năm thánh thánh, có sự nối kết trong truyền thống Kinh thánh. Thánh Vinh Sơn giải thích về tình trạng tội lỗi và sự đánh mất ân sủng, cho nên Năm Thánh là dịp để chúng ta hoán cải và đón nhận những ân sủng cần thiết qua kho tàng đức tin của Giáo hội. Và rồi ngài cũng tiếp tục nói với các chị về một số điều tương tự như những lần trước. Tuy nhiên ngài cũng dùng dịp này để nói về một vài điểm trong đời sống cộng đoàn cần được canh tân để sống năm thánh tốt hơn:

 “Hãy nâng cao tâm hồn của chính chị em, cũng như của các chị và tôi cùng với các chị em, và hãy nói  rằng, lạy Chúa, chúng con sẽ không bao giờ lẩm bẩm. Lạy Chúa, chúng con dâng hiến bằng cả tấm lòng chúng con cho Chúa và hứa không bao giờ chống đối các bề trên, các người có trách nhiệm hoặc các vhị lớn tuổi của chúng con, cũng như không chỉ trích những gì người khác làm. Đó là điều chúng ta phải làm, thưa chị em: đừng bao giờ thấy điều gì sai trái ngoại trừ bản thân chúng ta, và không bao giờ coi ai tệ hơn chúng ta cả.”[31]

Rõ ràng ít ra qua hai bài nói chuyện này, chúng ta nhận ra ý thức của Thánh Vinh Sơn về Năm Thánh, coi đó là một thời điểm ân sủng để canh tân bản thân và cộng đoàn qua việc hoán cải và làm việc thiêng liêng để đạt được những kho tàng ân sủng được ban qua Giáo hội trong những dịp đặc biệt này.

Cũng liên quan đến chủ đề Năm Thánh, trong một lần khác, Thánh Vinh Sơn đã cho đọc đoản sắc công bố Năm Thánh của Đức Giáo hoàng Alexander VII, cùng với các thư mục vụ của Đức giám mục trong một buổi lập lại lời cầu nguyện ngày 19 tháng 03 năm 1656.[32] Và trong buổi lập lại lời cầu nguyện này, Thánh Vinh Sơn đã nhấn mạnh tới 3 yếu tố của Năm Thánh này: những lý do phải làm mọi điều có thể để đạt được Năm Thánh đúng cách; Năm Thánh là gì? Giáo hội giảng dạy về điều này như thế nào; Phương tiện để sống Năm Thánh tốt.

 Chính Đức Giáo hoàng Alexander VII là người đã ban hành đoản sắc Ex Commissa Nobis để chuẩn nhận những lời khấn Tu hội Truyền giáo và Thánh Vinh Sơn đã rất vui mừng để có đoản sắc này.[33] Trong đó cha Vinh Sơn có nói về một điểm rằng, “đoản sắc Ex Commissa Nobis đã tuyên bố rằng, ngoài trừ Đức Giáo Hoàng và Bề Trên Tổng Quyền, không ai có thể được miễn lời khấn, ngay cả trong Năm Thánh và rằng, ngoài việc đề cập rõ ràng, quy định này nên vẫn có hiệu lực bất kể hiến pháp hay nhượng bộ nào.”[34] Đồng thời Đức Giáo hoàng Alexander VII cũng đã ban Đoản sắc “Alias nos supplicationibus” về quy chế cơ bản về đức nghèo khó của Tu hôi Truyền giáo.

Ngoài ra, chúng ta còn thấy đôi ba dịp khác nhau, Thánh Vinh Sơn cũng nói về Năm Thánh. Trong dịp Năm Thánh 1636, Thánh Vinh Sơn đã viết thư cho Thánh Louise và nhắc nhở bà về tâm tình sống Năm Thánh:

 “Không có khả năng nào để cô thực hiện được đợt tĩnh tâm ngắn của mình một cách đúng đắn bây giờ. Trước tiên cô hãy khỏe lại và sau đó chúng ta sẽ xem xét. Hãy sống Năm Thánh của cô, tuy nhiên, nhưng không ăn chay; vì cô đang bị ốm. Cha xứ sẽ cho cô một sự miễn trừ. Cô có thể đi xưng tội  nếu cô muốn, kể từ lần xưng tội chung cuối cùng.”[35]

Trong Năm Thánh 1648, Thánh Vinh Sơn cũng viết vài lá thư cho Thánh Louise để nhắc nhở về việc sống tâm tình của Năm Thánh. [36] Năm thánh này cũng được được cập đến trong một lá thư rất dài của cha Charles Nacquart gởi Thánh Vinh Sơn để báo cáo về hành trình truyền giáo của mình.[37] Năm thánh 1655 được thánh Vinh Sơn nhắc đến trong một lá thư gởi cho Charles Ozenne, bề trên nhà ở Ba lan lúc bấy giờ.[38]

Trong một chiều kích khác khi Tu hội cử hành Năm Thánh, nếu khi nói về linh đạo Vinh Sơn, một yếu tố rất quan trọng mà không bao giờ được bỏ qua, đó là linh đạo phục vụ người nghèo. Mặc dù thực tại nghèo đói luôn là điều không ai mong muốn và cổ súy, và người ta luôn phải đối diện với vô vàn những thách đố. Và đôi khi những gánh nặng và những thách đố ấy quá lớn, làm cho người ta thất vọng và bỏ cuộc trong sứ vụ này. Nhưng Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng trong Sắc chỉ Năm Thánh, khi nói về những dấu chỉ của hy vọng, ngài đã viết: “Tôi tha thiết cầu xin cho hàng tỷ người nghèo có được niềm hy vọng. Họ thường thiếu thốn những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.”[39]

Trong suốt cuộc đời của mình, Thánh Vinh Sơn Phaolô đã mang lại vô vàn những niềm hy vọng cho người nghèo và gia đình của họ. Ngài luôn thao thức và tổ chức công việc truyền giáo hay đại phúc và bác ái để phục vụ người nghèo cả về tinh thần và vật chất. Ngài luôn tìm kiếm phương tiện và cơ hội để có thể phục vụ người nghèo tốt nhất và nhiều nhất.

“Bằng cách này chúng có thể được gửi đến các giáo xứ trong thành phố cũng như các giáo xứ một cách dễ dàng hơn ở các thị trấn và làng mạc nơi họ sẽ được yêu cầu và mong muốn. Chúng ta mong muốn thúc đẩy một công việc tốt đẹp như vậy, điều mà chúng ta hy vọng rằng, bằng ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa, phải tiếp nối vinh quang của Ngài và sự cứu trợ to lớn cho người nghèo.”[40]  

Và rồi sự dấn thân không mệt mỏi ấy là để mang Tin Mừng của Chúa đến cho người nghèo và cứu giúp họ trong những hoàn cảnh bi đát “khi làm như vậy, có lý do để hy vọng rằng công việc tốt lành này sẽ tiếp tục phát triển, Giáo hội sẽ được xây dựng nhờ nó, và những người nghèo sẽ được nhẹ nhõm hơn.”[41]

Như vậy Thánh Vinh Sơn đã luôn mang đến niềm hy vọng cho người nghèo và nâng đỡ họ theo khả năng của mình. Hy vọng rằng đây cũng chính là niềm hy vọng của toàn thể Tu hội Truyền giáo trong dịp cử hành năm thánh này, là luôn sống trong niềm hy vọng phục vụ người nghèo, dù biết rằng có vô vàn những khó khăn trước mắt. Nhưng Thánh Vinh Sơn đã làm chứng cho niềm hy vọng ấy cách vững vàng trong cuộc đời của ngài, qua các công trình tinh thần mà ngài đã để lại cho chúng ta ngày nay. Đó chính là bằng chứng vững vàng để Tu hội tiếp bước ngài trong hành trình của đức tin và hy vọng trong nhiều trăm năm phía trước.

Với những gì Thánh Vinh Sơn đã làm và đã dạy cho các thành viên Vinh Sơn, đặc biệt đối với Tu Hội Truyền Giáo và Tu hội Nữ Tử Bác Ái, cùng với lời mời gọi của Giáo hội trong dịp cử hành Năm Thánh này đòi hỏi mỗi người cần thực hành niềm hy vọng của mình và sống tâm tình của năm ân sủng qua ba chiều kích: thay đổi cá nhân, thay đổi cộng đoàn hoặc giáo hội và thay đổi xã hội.[42] Các chiều kích này bắt nguồn từ trong nền tảng Thánh kinh và những giao ước mà Thiên Chúa đã thực hiện cho dân Ngài trong dòng lịch sử của con người. Đó luôn là thời điểm của hoán cải và canh tân để giao hòa lại với Chúa và anh em, để làm cho Năm Thánh trở thành một năm ân sủng trong đời sống người kitô hữu.

Một trong những đoạn Kinh thánh trọng tâm của Thánh Vinh Sơn và cũng là của Tu Hội Truyền Giáo sẽ lại được vang lên mạnh mẽ hơn trong Năm Thánh này đó là: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19). Năm hồng ân của Chúa hay nói khác đi là năm Sabath theo luật Cựu ước là để tái sinh lại công trình sáng tạo trong đời sống cộng đoàn. Đó chính là sửa chữa lại thế giới qua việc tha thứ, trả tự do, dành lại công bình cho người bị bất công, cử hành với niềm vui và tạ ơn:

“Trong việc chiêm niệm, dừng lại và cầu nguyện này, chúng ta bắt đầu khẳng định ơn gọi của Năm Thánh khi chúng ta để cho đất đai bị bỏ hoang và tăng trưởng tự nhiên, cũng như chính chúng ta, một một dịp Sabát thường lệ. Chúng ta tận hưởng sự tĩnh lặng và cô tịch, biết rằng đó không phải là sự ăn không ngồi rồi hay lười biếng, đó là bước thiết yếu đầu tiên để trở thành một dân tộc hân hoan trong một thế giới đang khao khát thời gian được Chúa ban ân huệ.”[43]

Với Thánh Vinh Sơn, cuộc sống của ngài phát triển và bộc lộ khi ngài tham gia vào một tiến trình đưa ngài đến sự trưởng thành hơn, một tiến trình đưa ngài đến việc liên tục tìm kiếm sự thánh thiện: “Sự hoàn hảo hệ tại ở sự kiên trì không ngừng để đạt được các nhân đức và trở nên thành thạo trong việc thực hành các nhân đức đó, bởi vì, trên Con đường của Chúa, không tiến lên là thụt lùi vì con người không bao giờ ở trong tình trạng cũ kỹ.”[44] Do đó, Thánh Vinh Sơn đã khám phá ra rằng, Thiên Chúa nói với chúng ta giữa cuộc tìm kiếm của chúng ta, giữa lịch sử cá nhân và cộng đồng của chúng ta, giữa những trải nghiệm khiến chúng ta trở nên nhân bản hơn.

Và cuối cùng, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói về thánh tổ phụ của chúng ta:

“Chúng ta cũng hướng tâm trí và trái tim của mình về Thánh Vinh Sơn Phaolô, một con người của hành động và cầu nguyện, của tổ chức và trí tưởng tượng, của tình yêu và sự khiêm nhường, một con người của quá khứ và hiện tại. Cầu mong người nông dân Landes, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, trở thành thiên tài của Kitô giáo, có thể giúp chúng ta bắt tay vào cày một lần nữa, không bao giờ nhìn lại phía sau, vì một nhiệm vụ quan trọng – loan báo Tin Mừng cho mọi người nghèo![45]

Đó chính là niềm hy vọng của Giáo hội và của Tu hội trong Năm Thánh này, là không ngừng lớn lên trong sự thánh thiện và dấn thân hơn trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Là sứ vụ mà chính Chúa Kitô đã làm để mang lại niềm vui và hy vọng cho một xã hội thiếu vắng Đức Kitô và ơn cứu độ của Ngài.

Trước thềm Năm Thánh 2025

Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM

[1] CCD XIIIa, 213. CCD là viết tắt của tập sách: Saint Vincent de Paul, Correspondence, Conferences, Documents. Edited by Pierre Coste (New York: New city press, 1985) của cha Pierre Coste bản tiếng Anh gồm 14 cuốn.

[2] Xin xem thư cha Tổng quyền gởi toàn thể Tu hội ngày 28/06/2023 với chủ đề “tái sinh các thực hành thiêng liêng”.

[3]https://www.vatican.va/jubilee_2000/docs/documents/ju_documents_17-feb-1997_history_en.html   

[4] Udovic, Edward. (2013) Saint Vincent’s Reading List XXXVII: Vincent de Paul and Jubilee Years. Tuy nhiên con số này sẽ bao gồm cả năm thánh thường niên và ngoại thường. https://via.library.depaul.edu/lib_pubs/89.

[5] Jubilees throughout History, https://www.iubilaeum2025.va/en/giubileo-2025/giubilei-nella-storia.html   

[6] Herbert Thurston. The Holy Year of Jubilee, an Acount of the History and Ceremonial of the Roman Jubilee. Westminster, Maryland: the Newman press, 1949, 98.

[7] Román, José María C.M. (2000) “The Priestly Journey of St. Vincent de Paul The Beginnings: 1600-1612,” Vincentiana: Vol. 44: No. 3, Article 3

[8]  CCD IX, 250.

[9] CCD I, 111. Thư gởi cho cha  Francois Du Coudray ngày 20 tháng 07 năm 1631.

[10] Jubilees throughout History, https://www.iubilaeum2025.va/en/giubileo-2025/giubilei-nella-storia.html

[11] Herbert Thurston, the Holy Year of Jubilee, an Acount of the History and Ceremonial of the Roman Jubilee. Westminster, Maryland : the Newman press, 1949, 102-103.

[12] CCD I, 38-45. Thư gởi Đức giáo hoàng Urbano VIII, tháng 06 năm 1628.

[13] CCD I, 140 và CCD XI, 172 , CCD XIIIa, 395.  Ở một số tài liệu khác, Salvatoris Nostri được đề ngày 12 tháng 1 năm 1632, có vẻ như đây là một lỗi về ngày tháng. Vì theo Pierre Coste “Tông sắc đã được ban hành vào năm Chúa Nhập Thể 1632, đêm trước ngày Ides của tháng giêng, năm thứ 10 Giáo Hoàng của ta.” Với tông sắc này, năm Nhập Thể bắt đầu không phải vào ngày 1 tháng Giêng, mà vào ngày 25 tháng 3. Vì vậy, đêm trước ngày Ides của tháng Giêng năm Nhập Thể 1632 là thực ra là ngày 12 tháng 1 năm 1633 (Annates [1926]). Hơn nữa, Đức Giáo hoàng Urbano VIII đã được bầu Giáo hoàng năm 1623 (5/8/1623) nên “năm thứ 10 triều đại giáo hoàng của ta” sẽ là năm 1633 (CCD I, 141 và CCD XIIIa, 403). Và để có được sự chuẩn nhận này, Thánh Vinh Sơn đã có 3 lần viết thỉnh cầu lên Đức Giáo hoàng Urbano VIII, lần I vào tháng 06 năm 1628 và lần 2 vào ngày 1 tháng 08 năm 1628 và lần 3 vào tháng 1 năm 1632 (CCD I, VII).

[14]CCD XII, 93 https://wiki.famvin.org/en/The_Paths_of_God_and_the_Poor:_the_Spiritual_Journey_of_Saint_Vincent_de_Paul

[15] Sắc Chỉ Công Bố Năm Thánh Thường Lệ 2025: Spes Non Confundit, Hy Vọng Không Làm Thất Vọng, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/spes-non-confundit-hy-vong-khong-lam-that-vong—sac-chi-cong-bo-nam-thanh-thuong-le-2025

[16] CCD XI, 237.

[17] Jubilees throughout History, https://www.iubilaeum2025.va/en/giubileo-2025/giubilei-nella-storia.html   

[18] Herbert Thurston. The Holy year of Jubilee, an Acount of the History and Ceremonial of the Roman Jubilee. Westminster, Maryland : the Newman press, 1949, 102-103.

[19] CCD IV, 71 và 105.

[20] Tất cả các liệt kê năm thánh ngoại thường này được trích dẫn từ: Herbert Thurston, the Holy Year of Jubilee, an Acount of the History and Ceremonial of the Roman Jubilee. Westminster, Maryland : the newman press, 1949, 389-391.

[21] CCD IX, 479.

[22] CCD IX, 480.

[23] CCD IX, 38.

[24] CCD X, 186.

[25] CCD II, 217.

[26] CCD II, 225.

[27] CCD IX, 38.

[28] Herbert Thurston. The Holy Year of Jubilee, an Acount of the History and Ceremonial of the Roman jubilee. Westminster, Maryland: the Newman press, 1949, 5.

[29] Ibid., 43.

[30] CCD X, 186.

[31] CCD X, 195.

[32] CCD XI, 301.

[33] Pierre  Coste. The    Life and Works of Saint Vincent de Paul (Monsieur  Vincent .; Le  grand  saint du grand  siecle), volume 1. Brooklyn, NY: New City Press, 1987, 495.

[34] Ibid., 498. CCD XIIIa, 420.

[35] CCD I, 341.

[36] CCD III, 317.

[37] CCD III, 538.

[38] CCD V, 411.

[39] Sắc Chỉ Công Bố Năm Thánh Thường Lệ 2025: Spes Non Confundit, Hy Vọng Không Làm Thất Vọng, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/spes-non-confundit-hy-vong-khong-lam-that-vong—sac-chi-cong-bo-nam-thanh-thuong-le-2025     

[40] CCD XIIIb, 132.

[41] CCD XIIIb, 142.

[42] Ross Kinsler and Gloria Kinsler. The Biblical Jubilee and the Struggle for Life, an Invitation to Personal, Ecclesial, and Social Transform. New York: Maryknoll, 1999.

[43] Maria Harris. Proclaim Jubilee, a Spirituality for the Twenty-first Century. Kentucky: Westminster John Knox, 1996, 34.

[44] CCD II, 146.

[45] Diễn văn của Đức Gioan Phaolô II trước Tu Hội Truyền giáo, ngày 30 tháng 6 năm 1986.