Chúa nhật II Phục Sinh – Kính Lòng Chúa Thương Xót – Năm C
(Bài đọc I: Cv 5:12-16; Bài đọc II: Kh 1:9-11a,12-13,17-19; Tin Mừng: Ga 20:19-31)
Cảm xúc và cảm thức đức tin
Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót năm nay là một dịp đặc biệt. Năm nay đánh dấu kỷ niệm 25 năm (ngân khánh) ngày phong thánh cho Thánh Faustina Kowalska (tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót) và ngày công bố cử hành Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, cả hai đều được cử hành bởi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào ngày 30 tháng 4 năm 2000.
Ngoài ra, năm 2025 là Năm Thánh của Giáo hội, một thời gian mà Giáo hội đặc biệt khuyến khích con cái mình tìm kiếm ân sủng và lòng thương xót của Chúa thông qua các bí tích. Sự hội tụ của việc kỷ niệm lễ kính Lòng Chúa Thương Xót với Năm Thánh thông thường, tạo nên một món quà đặc biệt của sự quan phòng của Chúa, một dịp đặc biệt đầy ân sủng, để đến gần Ngài.
Qua các biến cố này và qua các bài đọc Lời Chúa hôm nay, chúng ta có thể thấy một thực tại đức tin của mỗi người chúng ta, nó có thể đi từ những cảm xúc thể lý thông thường, cho đến chiều sâu của một đức tin vào Thiên Chúa. Đức tin về Đức Kitô Phục sinh cũng theo một chiều hướng như thế. Vậy làm sao để chúng ta biến những cảm xúc giác quan thể lý, thành những cảm thức đức tin mạnh mẽ luôn là một thách đố dành cho chúng ta.
Bài đọc thứ nhất trích từ Công vụ Tông đồ (5:12-16). Cảnh này diễn ra sau Lễ Ngũ tuần đầu tiên, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần và được thúc đẩy đến một đến mức táo bạo. Việc rao giảng và làm phép lạ của họ đã thu hút nhiều người đến với đức tin: “Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông” (Cv 5, 14). Thật là một sự thay đổi lớn so với một thời gian ngắn trước đó, khi một số người trong số họ hẳn đã hét lên “đóng đinh hắn!” Dân chúng giờ đây tin vào Đấng mà ông Phêrô và các tông đồ rao giảng. Họ tin vì họ cảm nhận được một sự biến đổi rõ rệt cả thể lý, lẫn tinh thần trong đời sống của họ.
Thánh Vịnh Đáp Ca là (Tv 118:2-24) là cùng một thánh vịnh với Chúa Nhật Phục Sinh. Đây là một bài Thánh vịnh phụng vụ quan trọng đối với cả người Do Thái và người Kitô hữu. Bài Thánh vịnh nhắc lại cách người Israel cầu xin Thiên Chúa của Israel giúp đỡ trong thời kỳ đau khổ và cách Thiên Chúa đã đến giải cứu họ. Tác giả Thánh vịnh, thay mặt cho toàn thể cộng đoàn, tiếp tục dâng lời ca ngợi tạ ơn và thừa nhận lòng nhân từ của Thiên Chúa. Giáo hội sử dụng Thánh vịnh này trong các cử hành để thừa nhận việc Thiên Chúa đã giải cứu chúng ta khỏi cái chết về mặt tinh thần, thông qua cái chết và sự phục sinh của Con Ngài, Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô.
Bài đọc thứ hai được trích từ Sách Khải Huyền (1:9-19). Đoạn văn này mô tả cách Thánh Gioan Tông đồ, người có một thị kiến trong đoạn văn này, đã “được đưa lên” trong tinh thần và được đưa lên thiên đàng, nơi ông “nhìn thấy” Chúa Giêsu Vinh quang. Trước cảnh tượng siêu việt như vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi ông ngã sấp mặt xuống đất như thể đã chết. Nhưng Chúa Giêsu an ủi ông và giải thích về sự tồn tại và quyền năng vĩnh cửu của Ngài “Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối” (Kh 1, 17). Chúng ta có thể không bao giờ may mắn như ông Gioan (ít nhất là trong suốt cuộc đời), nhưng qua lời cầu nguyện, chúng ta có thể làm sâu sắc thêm mối quan hệ của mình với Chúa Giêsu và sẵn sàng bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào Ngài mời gọi chúng ta. Thánh Gioan Tông đồ hôm nay cũng đã có một trải nghiệm mang tính cảm xúc trong đời sống đức tin. Nó cao siêu vĩ đại và vượt ra ngoài giới hạn thông thường của cảm xúc thể lý con người.
Bài Tin Mừng trích từ Tin Mừng Thánh Gioan (20:19-31). Hãy đặt mình vào bối cảnh này. Đêm Phục Sinh, Chúa Giêsu hiện ra trong Vinh Quang Thiên Chúa trước các tông đồ. Chúng ta có thể tưởng tượng được niềm vui, sau khi cơn sốc lắng xuống không? Chắc hẳn các tông đồ đã nhảy mừng khắp phòng. Sau đó, ông Tôma, người không có mặt ở đó, đã dội gáo nước lạnh vào sự kiện đó khi ông được biết về biến cố ấy, nhưng đã từ chối tin. Phải đến khi Chúa Kitô xuất hiện lần nữa, thì ông Tôma mới bị thuyết phục: “Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Đôi khi cũng có những cảm xúc nghi ngờ như vậy trong đời sống đức tin của chúng ta, nhưng rồi có thể qua một biến cố nào đấy, những cảm xúc đó biến thành một hành động đức tin mạnh mẽ và vững chãi.
Cảm xúc và nghi ngờ không phải là sai trái hay tội lỗi, nhưng để chúng như vậy mà không làm gì cả là sai. Đôi khi Chúa đặt những nghi ngờ vào đầu chúng ta để chúng ta tiến tới tìm kiếm sự thật thông qua cầu nguyện hoặc học hỏi hoặc cả hai.
Cả ba bài đọc đều cho thấy có một sự chao đảo, nghi ngờ và thậm chí sợ hãi luôn tồn tại trong đời sống đức tin. Nó là như thế, vì có thể đức tin ấy chưa có sự bám rễ chắc chắn vào chính điều mình tin. Nhưng một khi đức tin ấy được nuôi dưỡng, được cởi mở và đón nhận, được mặc khải và tỏ lộ, người ta, tất cả đều cảm nhận một sự bình an đến lạ thường. Đó là bình an của cảm thức đức tin, khi dân chúng tin vào Đấng Phục sinh mà ông Phêrô và các tông đồ loan báo; đó là bình an của cảm thức đức tin, khi ông Gioan được Đấng Hằng sống trấn an trong cơn thị kiến; đó là bình an của cảm thức đức tin nơi ông Tôma, sau khi cảm nhận và được thấy tận mắt Thầy mình đã sống lại.
Tất cả dẫn người ta vào một bầu khí của sự đổi mới và tái tạo. Đó chính là đức tin mà Đấng Phục sinh mang đến cho chúng ta. Nó đòi hỏi chúng ta ra khỏi cái cảm xúc thông thường của thể lý, để đi vào sâu hơn của một kinh nghiệm thiêng liêng với Chúa. Điển hình như ông Tôma, ông đã trải nghiệm sự bình an của Chúa Kitô, một đức tin đã thay đổi ông, khi ông không muốn thay đổi. Ông đã biết đến chiều sâu của sự nghi ngờ và đau buồn, nhưng rồi, với kinh nghiệm về Đấng Phục sinh, ông đã chuẩn bị để trở thành một tông đồ với một đức tin mạnh mẽ và bình an.
Tất cả những cảm xúc thể lý mà người ta có về Chúa, giờ đây với ơn ban Thánh Thần của Đấng Phục sinh, nó trở thành một cảm thức đức tin vững vàng vào Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi những con người ấy, đã dẫn họ đến chân lý, để họ sống đức tin ấy cách xác tín và bình an.
Chính kính nghiệm đức tin này chúng ta có thể nhận thấy ở việc sùng kính lòng Chúa thương xót. Xét cách nào đó, đó là một thực hành đạo đức bình dân, mang tính cảm xúc rất sâu đậm. Có những phong trào kính lòng Chúa thương xót kéo theo cả hàng ngàn người tham dự … họ làm thế vì họ tin sẽ được chữa lành, sẽ được an ủi, sẽ được bình an… đó là một cảm xúc và đức tin thường tình của người tín hữu.
Thế nhưng, nếu chỉ dừng lại ở đó thôi, thì đôi khi chúng ta sẽ rơi vào thất vọng, một khi những điều cảm xúc đức tin thông thường kia không được đáp ứng. Vì thế việc sùng kính lòng Chúa thương xót cần được bám rễ sâu vào truyền thống đức tin của Giáo hội và biến nó thành một cảm thức đức tin thực sự, qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ cũng nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa sự tha thứ tội lỗi và ân huệ của Chúa Thánh Thần. Sự tha thứ và hòa giải là những ân huệ Chúa Giêsu ban cho chúng ta.
Với ân sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể chia sẻ những ân huệ này với người khác. Đây là một khía cạnh thiết yếu khác của ý nghĩa là Giáo hội của Chúa Kitô. Giáo hội tiếp tục sứ vụ tha thứ và hòa giải của Chúa Giêsu. Vì thế, khi thực hành việc kính lòng Chúa thương xót, chúng ta cũng cần phải có tâm tình ấy, tâm tình của sự hoán cải và tha thứ, sự chữa lành bản thân và người khác. Có như thế, thì đó mới là cách sống đức tin đích thực trong đời sống của mỗi người Kitô hữu khi chúng ta thực hành việc đạo đức tốt lành này.
Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa!
Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM