Chúa nhật XV TN – Năm C

Đăng ngày: 12/07/2025

(Bài đọc I: Đnl 30:10-14; Bài đọc II: Cl 1:15-20; Tin Mừng: Lc 10:25-37)

Định luật của yêu thương

Chủ đề của các bài đọc Lời Chúa hôm nay nằm trong câu trả lời mà Chúa Giêsu dành cho một thầy thông luật, khi ông hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời. Chúa Giêsu không nói “những gì được viết trong Luật,” mà đúng hơn là ông cảm thấy thế nào trong lòng mình về con đường cứu rỗi và sự sống đời đời. Các luật cơ bản của Chúa được viết trong lòng chúng ta. Chúng ta gọi đây là “luật đạo đức” và nó áp dụng cho tất cả mọi người. Và vì nó nằm trong tim của mỗi người chúng ta, nên điều này đòi hỏi phải sống bằng trọn vẹn con người của mình.

Bài đọc thứ nhất, trích từ Sách Đệ Nhị Luật (30:10-14). Sách Đệ Nhị Luật được viết bởi một nhóm người Do Thái trung thành ở vương quốc Israel phía bắc vào thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên. Những người trung thành này lo lắng về sự suy thoái về mặt đạo đức và tinh thần của người dân vào thời sau Vua Đavid và Solomon. Họ đã tập hợp vào một sách mới, gồm tất cả những lời dạy của ông Môsê cùng với những lời khuyên răn và phong tục khác đã phát triển qua nhiều năm, với hy vọng khiến mọi người quay trở lại với những lời dạy của ông Môsê và với Thiên Chúa của Israel. Và điểm chính yếu của lề luật này trở thành lời kinh nguyện hằng ngày của dân Do thái, đó là: “giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ” (Đnl 30, 10).

Thánh Vịnh Đáp Ca là (Tv 69:14, 17, 30-31, 33-34, 36-37). Thánh Vịnh này là một lời than thở tương tự như Thánh Vịnh 51, thánh vịnh sám hối vĩ đại, trong đó tác giả thừa nhận tội lỗi của mình và cầu xin sự tha thứ và bình an, và hứa dâng lời ngợi khen và tạ ơn. Đây có thể dễ dàng là lời cầu nguyện, mà một trong những người theo sách Đệ Nhị Luật có thể đã cầu nguyện, hoặc bất kỳ ai đã nhận ra sự khiêm nhường của mình và cầu xin lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa.

Bài đọc thứ hai, trích từ Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôsê (1:15-20). Đoạn văn này là một bản văn Kitô học. Nó cũng liên quan đến bài đọc Tin Mừng và có thể đủ để trả lời cho câu hỏi của thầy thông luật. Điểm chính ở đây là chúng ta không cần luật lệ, quy tắc hay quy định thành văn, rằng Đức Kitô là tất cả những gì chúng ta cần và trong Ngài, có tất cả lẽ thật và tình yêu, đó là sự trọn vẹn của cuộc sống: “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người” (Cl 1, 19). Mục đích của cuộc sống chúng ta là nhận ra rằng, chúng ta là một với Chúa và với người lân cận.

Bài Tin Mừng trích từ Tin Mừng theo Thánh Luca (10:25-37). Trong bài đọc này, chúng ta có câu chuyện quen thuộc mà chúng ta gọi là “người Samari nhân hậu.” Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu đã dẫn những thính giả đang nghe ngài nói, hiểu được ý nghĩa của “người lân cận” theo một tâm tình mới của Tin Mừng.  Ý của Chúa Giêsu ở đây là “người lân cận” của chúng ta là bất kỳ ai mà chúng ta tiếp xúc, đặc biệt là những người cần giúp đỡ, bất kể đó là ai, người đó đến từ đâu hoặc họ đến được thời điểm này bằng cách nào.

Hình ảnh “người Samari” trong câu chuyện này là bị coi như một người dân ngoại, bị người Do Thái khinh thường; nhưng điều đó không ngăn cản anh ta cung cấp sự giúp đỡ và hỗ trợ cho người bị nạn. Tình thương đang bị thách đố vượt ra ngoài ranh giới thông thường của mối tương quan quen biết. Nó đòi hỏi chúng ta hành động bằng chính con tim chân thành của mình với một tình yêu dành cho người khác. Tình yêu ấy cũng đòi hỏi chúng ta sống bằng trọn vẹn con người của mình, trong cả hai chiều kích: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc 10, 27).

Chúa Giêsu đã phá bỏ mọi kỳ vọng về ranh giới, không phải những định nghĩa xã hội như giai cấp, tôn giáo, giới tính hay dân tộc quyết định ai là người lân cận của chúng ta. Người lân cận là người hành động với lòng trắc ẩn đối với người khác. Vấn đề không phải là ai xứng đáng được yêu thương như tôi yêu chính mình, mà là tôi trở thành người đối xử với mọi người bằng lòng trắc ẩn.

Khi Chúa Giêsu hỏi người thông luật rằng, ai là người lân cận trong câu chuyện, người luật sư không thể tự mình nói rằng đó là người Samari. Ông chỉ nói rằng đó là “chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” (Lc 10, 37). Và câu trả lời của Chúa Giêsu dành cho ông, và cũng là chìa khóa để ông có thể có được sự sống đời  đời là:  “ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.” Người thông luật, và chúng ta, biết điều gì là đúng. Chìa khóa là phải làm điều đó.

Người Samari đã thực hiện lệnh truyền của ông Môsê là tìm luật pháp của Chúa trong lòng mình và thực hiện. Ông ta đã lắng nghe tiếng Chúa bằng cả trái tim và tâm hồn mình. Trong quá trình đó, tâm hồn ông trở nên rộng lớn hơn và nạn nhân trở thành người lân cận của ông. Người Samari đã cho Chúa nhiều không gian hơn để hành động trong và thông qua ông. Mối quan hệ của ông với Chúa sâu sắc hơn, vì ông cho phép tình yêu của Chúa được tuôn đổ ra qua trái tim mình bằng lòng thương xót (Rm 5, 5).

Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong nhiều bài viết và bài phát biểu của mình, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng thương xót trong đời sống Kitô hữu. Trong Tông sắc của mình cho Năm Thánh Lòng Thương Xót, ngài viết, “lòng thương xót là luật cơ bản ngự trị trong trái tim của mỗi người chân thành nhìn vào mắt anh chị em mình trên con đường sống.” Đức Giáo hoàng thường nói về lòng thương xót như một điều gì đó phải được sống cụ thể trong các hành động hàng ngày của chúng ta. Đối với ngài, câu chuyện về người Samari nhân hậu là lời nhắc nhở rằng, tình yêu của chúng ta dành cho người lân cận không chỉ là một cảm xúc, mà là một loạt các hành động liên quan đến sự hy sinh cá nhân.

Chúng ta lắng nghe và suy ngẫm về câu chuyện hôm nay, để biết Chúa Kitô và học cách thực hành sứ mệnh của Ngài ngày nay. Trong Năm Thánh này, chúng ta học cách trở thành những người hành hương của hy vọng, câu chuyện dụ ngôn này chạm đến tận ruột gan chúng ta. Mỗi người được mời gọi để trở thành người hành hương hy vọng đầy lòng thương xót và tình yêu thương dành cho anh chị em của mình. Và điều đó cần phải trở thành lối sống của cuộc đời người Kitô hữu với tất cả con người toàn vẹn của mình trong cả hai chiều kích: mến Chúa và yêu người. Đó chính là con đường chắc chắn dẫn đến sự sống đời đời.

Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM