Giá trị kinh nghiệm thiêng liêng của Thánh Louise de Marillac liên quan đến Linh đạo Vinh Sơn
Fr. Juan Corpus Delgado, CM
1. Thánh Louise de Marillac, kho tàng vĩ đại của Gia Đình Vinh Sơn
Trong cuộc họp cố vấn ngày 8 tháng 9 năm 1655 của Tu hội Nữ Tử Bác Ái, trái ngược với cách tiếp cận thông thường của mình, Thánh Vinh Sơn ca ngợi công việc tốt lành của Bà Le Gras (Thánh Louise de Marillac). Thư ký của buổi đàm luận đã viết những lời sau đây: Với những lời này của bà, người mà cảm thấy mình dường như đã không đóng góp gì vào việc đó dưới bất kỳ hình thức nào, bà đã nói: “Thưa Cha, Cha và các chị em của chúng con đều biết rõ rằng, nếu con đã làm bất cứ điều gì thì đó là theo lệnh Cha đã giao cho con” (CCD XIIIb:325).[1]
Dường như lịch sử đã hiểu những lời này theo nghĩa đen. Trong một thời gian khá lâu, chúng ta đã biết đến và công khai những thành tựu to lớn của Thánh Vinh Sơn, nhưng vẫn giữ im lặng về hoạt động của Thánh Louise de Marillac. Hơn nữa, phần lớn những gì viết về bà không phản ánh được linh đạo đáng kinh ngạc của người phụ nữ này.
Tiểu sử đầu tiên của Thánh Vinh Sơn, do Louis Abelly xuất bản năm 1664, trình bày Thánh Louise de Marillac là người thực hiện sáng kiến của Thánh Vinh Sơn trong tinh thần vâng phục (Abelly I:136)[2], là người tuân thủ các quy tắc một cách trung thành (Abelly I:131), và là người mà Thánh Vinh Sơn xem như con gái thiêng liêng của mình (Abelly III: 272).
Tiểu sử đầu tiên của Thánh Louise, do Nicholás Gobillon xuất bản năm 1676, nêu bật những sáng kiến của Thánh Vinh Sơn và trình bày Thánh Louise là người phục tùng các quyết định của Thánh Vinh Sơn: “con người trung thành và nhiệt thành này đã nhận được mệnh lệnh từ Thánh Vinh Sơn với niềm vui lớn lao, với sự tôn trọng và phục tùng. Bà hoàn toàn vâng lời ngài… đến nỗi bà không làm gì riêng mình cả, vì bà hoàn toàn phụ thuộc vào ý kiến và mệnh lệnh của ngài. Bà xem Cha Vinh Sơn như thừa tác viên và người giải thích thánh ý Chúa.”[3]
Các tiểu sử và nghiên cứu viết về cuộc đời Thánh Vinh Sơn mang những sắc thái khác nhau (điều tương tự cũng có thể xảy ra đối với các bài viết về Thánh Louise), nhưng theo cách hiểu chung của các thành viên Gia đình Vinh Sơn thì một cách giải thích đã chiếm ưu thế. Cách giải thích đã nói (nếu bạn cho phép tôi phóng đại và khái quát hóa ở một mức độ nào đó) sẽ như sau: Thánh Vinh Sơn huy động mọi người tham gia vào việc phục vụ bác ái; Thánh Vinh Sơn luôn chủ động; Thánh Vinh Sơn đã đáp lại nhiều hình thức nghèo đói khác nhau mà ngài gặp phải; Thánh Vinh Sơn đã biến đổi Thánh Louise và hướng dẫn bà phục vụ người nghèo; bất chấp tính cách phức tạp và khó tính của Thánh Louise, Thánh Vinh Sơn đã biết cách huấn luyện bà trở thành người cộng tác trong việc thành lập Tu hội Nữ Tử Bác Ái.
May mắn thay, trong những năm gần đây quan điểm này đã thay đổi đáng kể. Nhiều nghiên cứu gần đây hơn đã giúp chúng ta gạt bỏ hình ảnh sai lầm về Thánh Louise là một người phụ nữ rụt rè, khắc khổ, buồn tẻ và thiếu vui vẻ.[4]
Một cách đặc biệt, ấn bản đầy đủ các bức thư và bút tích của Thánh Louise, được xuất bản bằng tiếng Pháp [1983], bằng tiếng Tây Ban Nha [1985] và bằng tiếng Anh [1991][5], đã cho chúng ta tiếp xúc trực tiếp với các tài liệu, cho phép chúng ta hiểu được những trải nghiệm khác nhau trong cuộc đời của thánh nữ. Nhờ việc xuất bản tác phẩm này, chúng ta nhận thấy mối quan tâm ngày càng tăng trong việc nghiên cứu các khía cạnh khác nhau trong cuộc đời của bà và chúng ta cũng nhận thấy có nhiều sáng kiến nhằm làm cho thánh nữ được biết đến nhiều hơn.[6]
Phải chăng điều này có nghĩa là trong hơn ba trăm năm qua, người ta không thể biết được Thánh Louise de Marillac và đã không biết được bà một cách chính xác ở mức độ nào đó?
Gobillon, trong tập thứ năm của cuốn Cuộc đời Mademoiselle Le Gras, đã tập hợp một số suy nghĩ của Thánh Louise.[7] Tuy nhiên, ngày nay chúng ta nhận ra rằng, mặc dù ông đã trình bày một số bài viết của Thánh Louise, nhưng hầu hết những gì ông viết là những bản tóm tắt về các cuộc đạm luận của Thánh Vinh Sơn, những bản trình bày lại các buổi đàm luận của Thánh Vinh Sơn và trong một số trường hợp, là những bài viết do chính Gobillon nghĩ ra. Điều này được thực hiện với lòng đạo đức và mong muốn làm hài lòng người đọc.[8] Kết quả là những suy nghĩ của Gobillon đã được sao chép lại trong những ấn bản mới và chưa hoàn thiện sau này đã xuất hiện.[9]
Người ta có thể đọc phần lớn các bức thư của Thánh Louise trong ấn bản tiếng Pháp do các Nữ tử ở Brujas chuẩn bị vào cuối thế kỷ 19.[10] Những bức thư Thánh Louise viết cho Thánh Vinh Sơn có thể được tìm thấy trong ấn bản tiếng Pháp của toàn bộ tác phẩm của Thánh Vinh Sơn do Pierre Coste chuẩn bị vào đầu thế kỷ XX.[11] Nhờ công việc của Cha Rosendo Castañares vào năm 1945[12], các Nữ tử ở Tây Ban Nha cuối cùng đã có thể đọc được những lá thư của Thánh Louise bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tuy nhiên, cả việc phong chân phước, lẫn phong thánh cho Thánh Louise cũng như các lễ kỷ niệm 300 năm ngày mất của các Đấng sáng lập vào năm 1960 (một sự kiện nhân dịp công bố một số nghiên cứu quan trọng về hai vị thánh) đều không được coi là cơ hội để trình bày các tác phẩm của Thánh Louise… một số tiểu sử đã được xuất bản như tiểu sử của Baunard (1898) và Calvet (1958), nhưng chúng không được phổ biến rộng rãi.[13]
Chúng ta phải đợi đến những năm cuối của thế kỷ 20 mới có thể tiếp cận được tác phẩm của Thánh Louise. Cha Benito Martínez, được biết đến với mục vụ dành cho những người nhập cư ở Paris, đã khởi xướng công việc này và được chị Elisabeth Charpy khen ngợi… nhờ công việc của họ mà giờ đây chúng ta có thể tiếp cận các bút tích của Thánh Louise.[14]
Trong ba mươi lăm năm qua, các nhà xuất bản, Ceme, đã cho phép chúng ta tiếp cận các tác phẩm của Thánh Louise và những người viết tiểu sử quan trọng hơn về bà: Gobillon, Calvet, Dirvin, Benito Martínez.[15] Tại thời điểm này, chúng ta đang được hỗ trợ trong việc truy tìm và nghiên cứu về Thánh Louise de Marillac, vì chúng ta có quyền truy cập vào các nguồn chính. Như đã được nói rất thường xuyên trong những ngày này, những bài viết này mang lại một sự phong phú đáng kinh ngạc cho Gia đình Vinh Sơn. Thật không may, cho đến ba mươi năm qua, khối gia sản này vẫn chưa được nhiều người biết đến và chưa được tìm kiếm và nghiên cứu đầy đủ (với sự nghiêm ngặt cần được áp dụng).
Thật là hay khi nghe Thánh Vinh Sơn Phaolô lặp lại một lần nữa: chúng ta đã nhìn thấy bức chân dung tuyệt đẹp này trước mắt chúng ta; bây giờ nó đang ở trên cao. Chúng ta vẫn phải tự làm mẫu cho mình về điều đó, nhưng để làm được như vậy chúng ta phải biết rõ về bà ấy (CCD X:582).
2. Thánh Louise de Marillac trong nguồn của linh đạo Vinh Sơn
Công đồng Vatican II khuyến khích tất cả các cộng đoàn đi theo Chúa Giêsu Kitô và quay trở lại nguồn linh đạo nguyên thủy của họ. Bằng cách này, những cộng đoàn này sẽ có thể tham gia vào một động lực đổi mới, được Giáo hội và thời đại mới chúng ta đang sống đòi hỏi ở họ.[16] Đòi hỏi này đã được cụ thể hóa và quy định trong các văn kiện của Giáo Hội gửi đến các tu hội và dòng tu khác nhau trong những năm sau Công đồng.
Vì vậy, chúng ta đọc trong hướng dẫn “những mối quan hệ tương hỗ” (Mutuae Relationes) rằng, chính đặc sủng của các Đấng sáng lập xuất hiện như một “kinh nghiệm về Thánh Thần”, được truyền cho các môn đệ của họ để họ sống, bảo vệ, đào sâu và không ngừng phát triển, hòa hợp với Thân Mình Chúa Kitô liên tục trong quá trình tăng trưởng… Đặc điểm đặc sủng của bất kỳ tu hội nào cũng đòi hỏi, cả Đấng sáng lập lẫn các môn đệ của ngài, liên tục kiểm tra về lòng trung thành với Chúa; ngoan ngoãn với Chúa Thánh Thần của Ngài; sự chú ý khôn ngoan đến các hoàn cảnh và một cái nhìn thận trọng hướng đến các dấu chỉ của thời đại… Đặc biệt trong thời đại chúng ta, cùng một sự chân thật lôi cuốn, hoạt bát và khéo léo trong khả năng sáng tạo của nó, được mong đợi ở các tu sĩ và những ai sống đời thánh hiến.[17]
Trong Tông huấn Đời sống Thánh hiến (Vita Consecrate), chúng ta đọc:
Vì vậy, các tu hội được mời gọi hãy can đảm tìm lại tinh thần xông xáo dám nghĩ dám làm, óc sáng tạo và sự thánh thiện của các đấng sáng lập, để đáp trả những “dấu chỉ thời đại” đang xuất hiện trong thế giới ngày nay. Lời mời gọi này tiên vàn nhắm đến việc kiên trì trên đường nên thánh, giữa những khó khăn vật chất và tinh thần gặp phải trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đó cũng là lời mời gọi hãy thủ đắc cho được một khả năng chuyên môn trong việc làm và trung thành năng động trong sứ mạng của mình, bằng cách khi cần, biết thích nghi các hình thái với những hoàn cảnh mới và những nhu cầu khác nhau, trong thái độ hoàn toàn tuân phục sự soi sáng của Thiên Chúa và sự biện phân của Giáo Hội. Dù sao, phải xác tín vững chắc rằng việc cố gắng càng ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa hơn là điều kiện chân thực của mọi cuộc canh tân trung thành với linh ứng nguyên thuỷ của mỗi tu hội.[18]
Khi chúng ta nói về tầm quan trọng của việc biết Thánh Louise và nghiên cứu các bài viết của bà, chúng ta không có ý rằng, khi làm như vậy, chúng ta có thể thể hiện bản thân theo một cách nào đó có thể chấp nhận được và/hoặc làm hài lòng xã hội rộng lớn hơn. Đúng hơn là chúng ta đang đáp lại lời mời gọi liên quan đến căn tính và lòng trung thành của chúng ta. Chúng ta đang nói về việc uống nước từ suối nguồn của linh đạo Vinh Sơn.
Lập luận do Thầy Ducourneau trình bày, nhằm thuyết phục các bạn đồng hành của mình về sự cần thiết phải tiếp nhận và suy ngẫm về những lời của Cha Vinh Sơn có thể giúp chúng ta khi tiếp cận các tác phẩm của Thánh Louise:
Di sản tốt nhất của những người cha là sự hướng dẫn tốt mà họ để lại cho con cái mình… Nếu những công việc mà Cha Vinh Sơn đã làm là công việc của Thiên Chúa, như chúng thấy, thì Thiên Chúa phải ban cho ngài Thánh Thần của Ngài, để thực hiện và duy trì chúng; do đó, những lời khuyên và lời dạy được dùng cho mục đích đó phải được coi là thiêng liêng và được thu thập như manna từ thiên đường… Người khác có thể nói rằng, Cha Vinh Sơn nói những điều không thể tìm thấy trong sách vở. Tôi trả lời rằng điều này có thể là như vậy; nhưng chúng ta biết rằng thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ sinh là sữa mẹ, và những lời dạy dỗ yêu thương của cha chúng gây ấn tượng sâu sắc trong tâm trí chúng hơn là của giáo viên vì lòng kính trọng và tình cảm tự nhiên mà Chúa đã ban cho mọi loại người đối với những người đã sinh ra chúng. Ngoài ra, rất khó tìm thấy trong sách những nguồn cảm hứng đẹp đẽ và động lực tốt, mà chúng ta nhận được từ những bài nói chuyện của người cha tốt bụng này, bởi vì ngài đưa ra những điều đó theo nhu cầu và nghĩa vụ của chúng ta, khác với nhiều điểm so với những điều mà các tu hội khác đã viết về những gì họ quan tâm (CCD XI:xxvii, xxx).
Khi Giáo hội chấp nhận một đặc sủng, Giáo hội bảo đảm với chúng ta rằng đó là một hồng ân tinh thần nhằm mục đích xây dựng Thân Mình Chúa Kitô.[19] Giáo hội đã chấp thuận đặc sủng Vinh Sơn và các tổ chức làm cho đặc sủng này trở nên hữu hình.
Khi Giáo hội nhìn nhận sự thánh thiện của một số cá nhân đã được Chúa Thánh Thần chọn để thành lập một gia đình thiêng liêng mới, Giáo hội đặt những cá nhân đó trước mặt chúng ta như một điểm tham chiếu và mời gọi chúng ta hãy đến với họ như những nguồn cảm hứng và đổi mới vĩnh viễn.[20]
Do đó, Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise là nguồn cảm hứng và sự đổi mới cho gia đình thiêng liêng này, cho Gia đình Vinh Sơn và chúng ta được mời gọi tái tạo, đào sâu và đổi mới trải nghiệm của các ngài.
José María Román lưu ý rằng, khi Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise biết nhau và bắt đầu cộng tác, linh đạo Vinh Sơn chưa được xây dựng đầy đủ, nhưng những khám phá thiết yếu đã được thực hiện. Tầm nhìn về Chúa Kitô nơi người nghèo, sự hiểu biết về sứ mệnh thiên sai như là truyền giáo cho người nghèo bằng lời nói và việc làm, cuộc cải cách cần thiết của Giáo hội thông qua việc đào tạo hàng giáo sĩ… tất cả những điều này đều là niềm xác tín hoặc có lẽ tốt hơn nên nói rằng chúng là những ý tưởng không thể đảo ngược – những khái niệm đã trở thành một phần của Thánh Vinh Sơn nhờ những trải nghiệm của ngài ở Folleville và Chatillon (1617) và ở Montmirail-Marchais (1621). Hơn nữa, ngài đã tìm thấy hoặc sắp tìm ra những phương tiện cụ thể để truyền năng lượng biến đổi của mình: Hội bác ái (được thành lập năm 1617) và Tu Hội Truyền Giáo sắp được thành lập vào năm sau, tức là vào năm 1625.[21]
Tôi dám nói rằng, ngày nay chúng ta đang ở một vị trí mà chúng ta có thể chắc chắn (theo nghiên cứu của chúng ta) rằng điều mà chúng ta gọi là linh đạo Vinh Sơn đã được tinh luyện nhờ sự hiểu biết và cộng tác lẫn nhau giữa Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise de Marillac.
Trong Lời tựa cuốn tiểu sử về Thánh Louise de Marillac do Cha Dirvin viết, Đức Hồng Y Terence Cooke đã viết: thật đáng tiếc là trái tim vĩ đại và thiên tài nguyên thủy của người phụ nữ vĩ đại này đã bị che khuất dưới cái bóng của người bạn, người hướng dẫn và đồng nghiệp của bà. Tất nhiên, là bà sẽ không nghĩ vậy; nhưng lịch sử dường như không đủ kiên nhẫn với lòng tự trọng khi che giấu những thành tựu phi thường.[22]
Có phải chúng ta đang phóng đại? Có phải chúng ta đang chuyển sang thái cực ngược lại và như một phản ứng, chúng ta đang gán cho Thánh Louise những gì phù hợp với Thánh Vinh Sơn?
Theo ý kiến của tôi, Nữ tử Bác ái đã có thể tìm ra con đường đúng đắn khi họ sửa đổi Hiến pháp của mình tại Tổng đại hội năm 2003. Họ đã nhận được một số thỉnh đơn đề nghị đổi tên Tu hội để vai trò của Thánh Louise được phản ánh và do đó sẽ không được gọi đơn giản là Tu hội Nữ tử Bác ái Thánh Vinh Sơn Phaolô.[23] Các thành viên của Tu hội hiểu rằng, họ không giải quyết vấn đề cách đơn giản là thay thế tên Vinh Sơn Phaolô bằng tên Louise de Marillac. Đúng hơn, điều quan trọng nhất đối với Tu hội, là khôi phục lại sự tươi mới và sức sống cho những hiểu biết sâu sắc của Thánh Louise. Mọi thứ khác chỉ là thứ yếu.
Theo cùng một lối suy nghĩ, tôi không muốn tạo ấn tượng rằng tôi đang đề nghị Gia đình Vinh Sơn nên đổi tên để có chút ám chỉ đến Thánh Louise de Marillac.
Một lần nữa, chúng ta không giải quyết vấn đề bằng cách đơn giản là thay đổi tên gọi, mà đúng hơn là chúng ta đang cố gắng khám phá và suy ngẫm về các nguồn để Gia đình Vinh Sơn phản ánh kinh nghiệm của Thánh Louise de Marillac với tư cách là đấng sáng lập thực sự.
Jaime Corera[24] đã sử dụng cách diễn đạt tuyệt vời của Thánh Irenaeus, người đã nói về hai bàn tay của Chúa Cha: Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise là hai bàn tay của cùng một đặc sủng mà chúng ta được mời gọi đào sâu, làm sống động và thể hiện.
Chắc chắn các Nữ Tử sẽ vui lòng chấp nhận lời đề nghị này. Nhưng liệu các thành viên khác của Gia đình Vinh Sơn cũng có sẵn lòng chấp nhận điều này không? Tôi tin tưởng rằng đây có thể là một trong những hoa trái của việc cử hành kỷ niệm dịp 350 năm ngày qua đời của Thánh Vinh Sơn Phaolô và Thánh Louise de Marillac trước đây (2010), hai vị sáng lập Gia đình Vinh Sơn.
Cho phép tôi bày tỏ những suy nghĩ của mình một cách đơn giản và từ đó tổng hợp phần đóng góp của tôi cho chủ đề này:[25]
a] Khi nói về đặc sủng Vinh Sơn, tôi hiểu đây là một món quà của Chúa Thánh Thần được Thiên Chúa ban cho Giáo hội nơi con người của Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise de Maillac. Ân sủng của Thánh Thần này được chia sẻ bởi những người theo Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise, những người, trong các tổ chức và hiệp hội khác nhau được các vị truyền cảm hứng, cố gắng hết sức để sống, bảo vệ, đào sâu và phát triển ân sủng này phù hợp với sự phát triển liên tục của thân thể Chúa Kitô.[26]
b] Mặc dù về mặt từ nguyên, từ Vinh Sơn bắt nguồn từ tên Vinh Sơn, tôi không tin rằng tính độc đáo của đặc sủng Vinh Sơn chỉ đề cập đến nhân cách của Thánh Vinh Sơn. Không thể hiểu được đặc sủng Vinh Sơn nếu không có sự đóng góp của Thánh Louise de Marillac. Càng nghiên cứu mối quan hệ giữa Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise de Marillac, chúng ta càng khó gán cho người này hay người kia điều mà chúng ta đã biết là đặc sủng Vinh Sơn.
c] Việc hình thành đặc sủng Vinh Sơn không chỉ diễn ra vào thời các Đấng sáng lập. Đặc sủng là một thực tại năng động đã tiếp tục được tái tạo trong mỗi thời đại và tiếp tục mang lại sức sống cho các cá nhân, cộng đoàn và tu hội khi họ trung thành đáp lại Chúa Thánh Thần. Vì vậy, khi chúng ta bước theo Chúa Giêsu Kitô và chú ý đến những nguồn mạch nền tảng của mình, đoàn sủng Vinh Sơn phải liên tục được tái tạo và thể hiện dưới những hình thức mới.
3. Linh đạo của Thánh Louise de Marillac là linh đạo Vinh Sơn
Thánh Louise de Marillac đã phát triển đời sống thiêng liêng của mình nhờ những ảnh hưởng khác nhau của những cá nhân mà Chúa đã đặt trên đường đi của bà như những người bạn đồng hành trên hành trình.[27] Thánh Vinh Sơn Phaolô cũng đã bắt đầu một cuộc hành trình tương tự, trong đó ngài được tháp tùng bởi những cá nhân mà Chúa đã sai đến với ngài trong quá trình hoán cải của ngài.
Khi Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise de Marillac gặp nhau, sự cộng tác lẫn nhau và tình bạn sâu sắc của họ đã trở nên khả thi, cũng như vô số công việc từ thiện khác… và tất cả những điều này đã trở thành một phần của đặc sủng Vinh Sơn. Thánh Vinh Sơn đề nghị Thánh Louise tham gia vào những khám phá của mình. Do đó, cả hai bắt đầu chia sẻ cùng một đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo hội. Với những đặc điểm riêng của mỗi người, Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise đã sống và truyền lại cho chúng ta linh đạo của họ, linh đạo Vinh Sơn.
Một vài tuần trước khi qua đời, Thánh Louise de Marillac đã viết một lá thư trong đó bà mô tả rõ ràng (gần như sơ sài) bản chất của linh đạo Vinh Sơn: một đời sống hoàn toàn thiêng liêng, một đời sống Kitô hữu trong đó các cá nhân hiến thân cho Thiên Chúa để phục vụ Ngài nơi những người nam nữ nghèo khổ… một sự phục vụ thường đòi hỏi họ phải làm những công việc có vẻ thấp hèn và đáng khinh. Vì vậy, tôi chưa tìm được cô gái nào muốn hiến thân phục vụ Chúa nơi người nghèo với tư cách là thành viên của Tu hội… điều này đòi hỏi những cá tính mạnh mẽ, mong muốn đạt đến sự thánh thiện của những Kitô hữu chân chính và muốn chết cho chính mình bằng cách hành xác và một hành vi từ bỏ thực sự, mà họ đã thực hiện khi chịu Bí tích Rửa tội thánh thiện, để Thánh Thần của Chúa Giêsu Kitô ngự trong họ và ban cho họ sức mạnh để kiên trì trong lối sống hoàn toàn thiêng liêng này, mặc dù họ sẽ được tuyển dụng vào các công việc bên ngoài, tỏ ra thấp hèn và đáng khinh trong mắt thế gian, nhưng lại vinh quang trước mặt Chúa và các thiên thần của Ngài (SWLM:674 [L.651]).
Chúng ta đang nói về một nền linh đạo, một linh đạo Vinh Sơn. Ở đây, linh đạo ám chỉ lối sống phù hợp với Chúa Thánh Thần, bước theo Chúa Giêsu Kitô, một lối sống mới trong Chúa. Cha Robert Maloney mô tả linh đạo này như sau: linh đạo là một tầm nhìn đầy sinh lực, một động lực. Một mặt, đó là cách cụ thể để một người bám rễ vào Thiên Chúa. Mặt khác, đó là cách cụ thể mà người đó liên hệ với thế giới được tạo ra. Đó là cái nhìn sâu sắc như là nguồn gốc của hành động. Đó là tầm nhìn tạo ra năng lượng và truyền năng lượng theo một hướng cụ thể, từ đó cho phép một người vượt qua chính mình. Đối với người Kitô hữu, cách nhìn thấy Chúa Kitô và ở trong Người sẽ hướng năng lượng của cá nhân vào việc phục vụ vương quốc.[28]
Khi nói về linh đạo Vinh Sơn, chúng ta đề cập đến sự kiện mà chúng ta tìm thấy nơi Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise de Marillac nguồn cảm hứng để bước theo Chúa Kitô. Kitô giáo không bao gồm các công thức, hệ tư tưởng và khái niệm, nhưng chủ yếu là ân ban, sự hiện diện, kinh nghiệm và cuộc sống. Theo nghĩa này, cuộc đời của Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise trở thành nguồn cảm hứng giúp những người theo họ mặc lấy thái độ và giá trị Kitô giáo. Vì vậy, đúng là chỉ có một nền linh đạo duy nhất, đó là linh đạo Kitô giáo. Tuy nhiên, đồng thời, cũng có thể nói đến linh đạo Phanxicô, Cát Minh hoặc Vinh Sơn.[29]
Linh đạo Vinh Sơn là một cách trở thành Kitô hữu đã được ban tặng cho Giáo hội, qua con người của Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise de Marillac. Đây là một lối sống được tái tạo trong mọi thời đại, một lối sống không ngừng được đào sâu và phong phú nhờ sức sống từ những phản ứng của mỗi cá nhân Vinh Sơn, cộng đoàn Vinh Sơn và hiệp hội hay tu hội Vinh Sơn, khi họ trung thành với Chúa Thánh Thần.
Sau khi Thánh Louise qua đời, các Nữ tử họp lại với Thánh Vinh Sơn để nói về các nhân đức của bà và họ coi cuộc đời của Mẹ Le Gras như một tấm gương trong đó chúng ta chỉ có thể nhìn vào chính mình (CCD X:577).[30] Thái độ mà cách diễn đạt này gợi ý là một thái độ thích hợp cho những ai muốn kiểm chứng lối sống Kitô giáo của họ, cách họ đi theo Chúa Giêsu Kitô bằng cách suy ngẫm về kinh nghiệm thiêng liêng của Thánh Louise de Marillac, bằng cách suy ngẫm về cách Thánh Louise đi theo Chúa Giêsu Kitô và bằng cách suy ngẫm về cách Thánh Louise sống một đời sống Kitô hữu.
Tôi luôn ấn tượng trước cách hành xử của Chị Marguerite Chétif trong thời gian trước đây. Khi được kêu gọi lãnh đạo Tu hội, bà đã cố gắng tìm nguồn cảm hứng cho những quyết định mà bà phải đưa ra và về phương hướng mà bà phải đưa ra. Bà lấy một số cuốn sổ và chép lại những bài viết của Thánh Louise. Bà cũng tập hợp những bức thư của Thánh Louise đã gửi cho các Nữ tử và chép vào sổ. Những cuốn sổ này, sau này đã giúp các nhà nghiên cứu xây dựng lại một số tài liệu gốc, cung cấp cho chúng ta cả bằng chứng lẫn thách thức.[31]
Chúng ta, những người muốn trở thành Kitô hữu và muốn tái tạo và sống linh đạo Vinh Sơn, có thể lắng nghe những lời của Thánh Vinh Sơn khi ngài nói với chúng ta: Chúng ta cần phải noi gương [nhân đức và cuộc sống của Thánh Louise] (CCD X:582). Tôi đã nói về điều này trước đây nhưng đối với tôi, nó dường như là một thách thức đang diễn ra.
4. Tích hợp kinh nghiệm thiêng liêng của Thánh Louise de Marillac: một thách thức đối với linh đạo Vinh Sơn của chúng ta
Dưới ánh sáng những xác tín mà tôi đã chia sẻ với các bạn, bây giờ tôi sẽ cố gắng làm nổi bật một số khía cạnh trong kinh nghiệm thiêng liêng của Thánh Louise, để chúng ta có thể suy ngẫm về vị trí và tầm quan trọng của chúng trong linh đạo Vinh Sơn của chúng ta.
Vì linh đạo là cuộc sống, kinh nghiệm và việc đi theo Chúa Giêsu Kitô, và vì mỗi cá nhân sẽ nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của việc đi theo Chúa Kitô, nên chúng ta có thể nêu bật một số yếu tố trong kinh nghiệm tâm linh của Thánh Louise, những yếu tố sẽ được xem xét trong các phần sau.[32]
Ngày nay, sau hơn 4 thế kỷ, những yếu tố mà chúng ta khám phá được trong trải nghiệm của Thánh Louise thách đố chúng ta làm sống động và tái tạo đặc sủng Vinh Sơn. Những yếu tố trong kinh nghiệm thiêng liêng của Thánh Louise được thảo luận trong các phần tiếp theo không được liệt kê theo thứ tự quan trọng nào, mà chỉ đơn giản nhằm mục đích hướng dẫn chúng ta nghiên cứu và suy ngẫm.
4.1 Cảm nghiệm sống một mình, hoàn toàn dấn thân cho Chúa và sẵn sàng làm theo ý Chúa trong mọi sự
Chúng ta thường đề cập đến sự suy yếu của đức tin Kitô giáo ở thế giới phương Tây. Chúng ta ý thức rất rõ về những điểm yếu của Giáo hội giữa một xã hội, khi có được nhiều nguồn lực hơn, lại đặt ra những tiêu chuẩn và tầm nhìn riêng của mình chiếm ưu thế… do đó tự xa rời Giáo hội. Dấu hiệu và nguyên nhân của tình trạng này thường được gọi là chứng mất trí nhớ tinh thần nào đó.[33]
J.B. Metz đã viết: chúng ta đáp lại cuộc khủng hoảng của Thiên Chúa bằng lòng say mê Thiên Chúa[34]. Niềm đam mê Thiên Chúa này đã được các tu sĩ nói đến gần đây.[35] Đặc sủng Vinh Sơn chỉ có thể được tái tạo và mang lại sức sống mới bằng cách đặt niềm tin tưởng của chúng ta vào Đấng lấp đầy cuộc sống của chúng ta và mời gọi chúng ta phục vụ Ngài nơi người nghèo.
Cuộc đời của Thánh Louise de Marillac chỉ có thể được hiểu từ góc độ mối quan hệ của bà với Thiên Chúa: bà mong muốn hiến dâng trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa, coi Thiên Chúa là trung tâm của cuộc đời bà… đối với bà, Thiên Chúa là tất cả. Chúa là Thiên Chúa của con và tất cả của con. Con nhận biết Ngài như vậy và tôn thờ Ngài, Thiên Chúa chân thật duy nhất trong Ba Ngôi, bây giờ và mãi mãi (SWLM:694 [A.3]). Lòng tôi vẫn tràn ngập niềm vui vì tôi tin rằng Thiên Chúa nhân lành đã ban cho tôi sự hiểu biết về câu: “Thiên Chúa là Thiên Chúa của tôi!” (SWLM:341 [L.369]).
Thánh Louise lấy mối quan hệ với Chúa làm trung tâm cuộc đời mình. Vì vậy, khi nói chuyện với những người mong muốn sống một cuộc sống kết hợp với Chúa, bà chỉ ra rằng, cách duy nhất để làm điều này là dấn thân thực hiện ý muốn của Chúa: hãy thực hành việc sống hoàn toàn cho Chúa bằng tình yêu và sự kết hợp thanh thản giữa ý muốn của chị em với ý muốn của Ngài trong mọi sự (SWLM:679 [L.40]).
Sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và luôn luôn làm theo ý muốn của Thiên Chúa, là con đường trung thành sáng tạo, con đường mang lại sự sống cho đặc sủng Vinh Sơn. Khi chúng ta sống ơn gọi của mình, chúng ta không chỉ cố gắng phục vụ người nghèo… rất nhiều người khác có thể làm điều này và có thể làm tốt hơn. Đúng hơn, ơn gọi của chúng ta có nghĩa là chúng ta dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa, để trở thành chứng nhân cho tình yêu của Ngài, khi chúng ta phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ.[36]
4.2 Từ góc nhìn của phép rửa, kinh nghiệm bước theo Chúa Giêsu Kitô và đồng hóa với những suy nghĩ, lời nói, thái độ và hành động của Ngài
Trong sự hiểu biết của mình về đời sống Kitô hữu, Thánh Louise rất coi trọng bí tích rửa tội. Bà nhấn mạnh thực tế rằng:
Món quà sự sống mới được nhận vào lúc rửa tội phải dẫn dắt mọi người tập trung cuộc sống của họ vào Chúa Kitô. Qua phép rửa, chúng ta trở thành chi thể của Chúa Kitô và đời sống của mỗi Kitô hữu bao hàm việc đồng nhất mình với Chúa Kitô. Chúng ta là những người được rửa tội trong Chúa Giêsu Kitô, được rửa tội trong cái chết của Ngài… Vì bí tích Rửa tội là một sự sinh ra thiêng liêng, nên Ngài, nhân danh mà chúng ta chịu phép rửa, là Cha của chúng ta và chúng ta là con cái của Ngài, chúng ta phải giống Ngài… Do đó, chúng ta hãy sống như thể chúng ta đã chết trong Chúa Giêsu Kitô. Từ nay trở đi, đừng chống đối Chúa Giêsu nữa, đừng hành động nào khác ngoài Chúa Giêsu, đừng suy nghĩ gì ngoài Chúa Giêsu. Cầu mong cuộc sống của tôi chỉ dành cho Chúa Giêsu và người lân cận của tôi, để nhờ tình yêu hợp nhất này, tôi có thể yêu tất cả những gì Chúa Giêsu yêu, và nhờ sức mạnh của tình yêu này, lấy trung tâm là tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa dành cho các tạo vật của Ngài, tôi có thể nhận được từ lòng nhân hậu của Ngài, những ân sủng mà lòng thương xót của Ngài sẽ ban cho tôi (SWLM: 786 [A.23]).
Vì đời sống Kitô giáo bao hàm chúng ta trong một tiến trình liên tục đồng hóa với Chúa Giêsu Kitô, Đấng ở lại với chúng ta qua phép rửa của chúng ta, nên chúng ta không nên ngạc nhiên khi Thánh Louise liên tục quay trở lại biến cố rửa tội, khi ngài chuẩn bị đưa ra hoặc đổi mới một số đề nghị với tư cách là nữ tử của Giáo hội. Bà đã khuyến khích cách thực hành này với các Nữ tử và trên thực tế, nó xuất hiện trong công thức lời khấn (SWLM:782 [A.44b]).
Là một người phụ nữ cảm nghiệm được tình yêu của người phối ngẫu, bà mong muốn được đồng nhất mình với người chồng của mình và được sống với người chồng trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.[37] Tôi phải noi gương Chúa Giêsu như một người phối ngẫu cố gắng giống chồng mình (SWLM:716 [A.5]). Điều hợp lý là chúng ta nên theo Ngài và noi gương đời sống nhân bản, thánh thiện của Ngài. Ý nghĩ này thấm nhuần tâm trí tôi và thúc đẩy tôi quyết tâm hết lòng theo Ngài, không chút dè dặt. Tràn đầy niềm an ủi và hạnh phúc khi nghĩ đến việc được Ngài chấp nhận sống trọn đời làm môn đệ của Ngài, tôi quyết tâm rằng trong mọi việc, đặc biệt là trong những hoàn cảnh không chắc chắn hoặc nghi vấn, tôi sẽ xem xét những gì Chúa Giêsu sẽ làm (SWLM: 715 [A.5]). Chúa Giêsu là Đấng mà tôi phải noi gương, không ở mức độ cao hơn hay thấp hơn, so với việc một người học việc bắt chước chủ của mình nếu họ muốn trở nên hoàn hảo (SWLM: 719 [A.8]).
Thánh Louise hiểu rằng để trở thành một Kitô hữu chân chính, bà phải sống giống Chúa Kitô, bà phải làm những gì Chúa Kitô đã làm: vì vậy, tôi quyết tâm suy niệm sâu sắc về cuộc đời của Ngài và cố gắng noi gương đó. Tôi đã dành rất nhiều thời gian để suy ngẫm về danh hiệu Kitô hữu mà chúng ta mang, và tôi đi đến kết luận rằng, thực sự chúng ta phải làm cho cuộc sống của mình phù hợp với cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Để làm được điều này, tôi nghĩ rằng tôi nên nghiên cứu cách thức mà tôi đã có được danh hiệu này và những từ ngữ được Mẹ Thánh Giáo Hội sử dụng khi đặt tên này cho chúng ta. Cuối cùng, tôi phải nhớ rằng, tôi đã nhận được thánh danh này để trở thành một kitô hữu chân chính (SWLM:777-778 [A.36]).
Sử dụng những lời tương tự như Thánh Vinh Sơn, Thánh Louise đề xuất: trong mọi hành động của chúng ta, chúng ta có thể tôn vinh Chúa bằng chứng tá mà Ngài muốn chúng ta làm cho Ngài, bằng cách thực hiện những hành động mà Ngài đã hoàn thành trên trái đất (SWLM: 821 [A.26]).
Linh đạo Kitô giáo (và do đó linh đạo Vinh Sơn), sẽ đích thực nếu chúng ta coi việc theo Chúa Giêsu là tiêu chuẩn hàng đầu và dứt khoát của đời sống chúng ta. Ngày nay, khi chúng ta tiếp tục nỗ lực mang lại sự sống cho đặc sủng Vinh Sơn, điều quan trọng nhất là trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta phải làm chứng cho Tin Mừng, bằng cách chọn Chúa Giêsu Kitô.
Đi theo Chúa Giêsu Kitô và hiến dâng cuộc đời mình cho Đấng là mạc khải trọn vẹn nhất của Thiên Chúa[38] là kéo dài sứ vụ của Chúa Giêsu cho những người kém may mắn hơn, những người nghèo nhất, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, những người là bí tích của Ngài.[39] Trong một thời gian chiêm niệm (thay vì lý luận), Thánh Louise hiểu rằng chính nơi con người của người nghèo, mà bà có thể dâng lên Chúa Kitô mọi danh dự và vinh quang: suy niệm của tôi mang tính chiêm niệm hơn là lý luận. Tôi cảm thấy một sức hấp dẫn lớn lao đối với nhân tính thánh thiện của Chúa và tôi mong muốn tôn vinh và noi gương nhân tính đó trong chừng mực có thể nơi con người của người nghèo và tất cả những người lân cận của tôi. Tôi đã đọc ở đâu đó rằng, Ngài đã dạy chúng ta lòng bác ái để bù đắp cho sự bất lực của chúng ta trong việc phục vụ Ngài. Điều này đã chạm đến trái tim tôi một cách đặc biệt và rất sâu sắc (SWLM:820 [A.26]).
Trung thành với việc đồng hóa với Chúa Kitô (kết quả của phép rửa), chúng ta cố gắng đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô hơn và kéo dài sứ mệnh của Ngài trên trái đất, bằng cách phục vụ những người hèn mọn nhất, những người nghèo khổ. Kinh nghiệm của Louise thách thức chúng ta cống hiến sức sống cho nội dung nền tảng của linh đạo Vinh Sơn của chúng ta.
- Kinh nghiệm Chúa Giêsu chịu đóng đinh thôi thúc chúng ta yêu thương những người hèn mọn nhất và tất cả những người bị đóng đinh trong lịch sử
Trong kinh nghiệm thiêng liêng cá nhân, Thánh Louise đặc biệt thích đồng hóa mình với Chúa Giêsu, Chúa bị đóng đinh. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để đến gần nhân loại hơn và quá trình này đã bắt đầu từ lúc nhập thể và đạt đến đỉnh cao trên thập giá. Chúa Kitô bị đóng đinh trên thập giá kéo chúng ta vào tình yêu của Ngài và vào sự sống thánh thiện đang chờ đợi chúng ta (SWLM: 827-829 [A.27]).
Ngay từ lúc chịu phép rửa, các Kitô hữu đã là những người theo Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh: vâng, thưa các chị thân mến, vinh dự lớn nhất mà các chị em có thể nhận được là được vác thập giá theo Chúa Giêsu Kitô (SWLM: 535 [L.393]). Giáo hội nên nhận ra rằng, Giáo hội luôn luôn là hiền thê của Chúa Giêsu bị đóng đinh và việc các thành viên chạy trốn khỏi điều mà Ngài là đầu của họ rất mong muốn, thì đó là điều không hợp lý (SWLM: 786 [A.23]).
Để đánh giá lại tính thiêng liêng của thập giá, chúng ta phải khẳng định sự thật rằng, chúng ta là những người theo Chúa Giêsu Kitô, Chúa chịu đóng đinh. Điều này trở thành một thách thức thực sự khi chúng ta cố gắng mang lại sự sống cho đặc sủng Vinh Sơn vào thời điểm hiện tại. Lòng bác ái của Chúa Giêsu chịu đóng đinh thôi thúc chúng ta là dòng chữ trên con dấu đã được Thánh Louise sử dụng… ở đó chúng ta tìm thấy hình ảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh trên một trái tim được bao quanh bởi ngọn lửa.
Đi theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu chịu đóng đinh, một chướng ngại vấp phạm đối với người Do Thái và là sự ngu ngốc đối với dân ngoại (1 Cr 1:23), bao hàm việc từ bỏ mọi hình thức quyền lực để sống trong tình liên đới với những người nghèo nhất, bị khinh miệt nhất, hèn mọn nhất. Những người không được quan tâm, những người chỉ biết đến nỗi đau của thập giá, những người trải qua rất nhiều thập giá… những người này có thể khám phá ra Chúa Kitô đau khổ trong họ và với họ. Quan trọng hơn nữa, những cá nhân này có thể mở lòng đón nhận ánh sáng Phục sinh và trải nghiệm cuộc sống như con cái Thiên Chúa.
Đi theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu chịu đóng đinh, có nghĩa là chúng ta bắt đầu hiểu rằng thành công không phải là một trong các danh của Thiên Chúa[40] và do đó, trong ơn gọi và sự phục vụ của mình, chúng ta không được yêu cầu duy trì một mức độ hiệu quả nào đó, nhưng đúng hơn chúng ta được mời gọi hãy trung thành.[41]
Nếu dấu hiệu thực sự của người Kitô hữu là thập giá, thì điều đúng đắn là lời cam kết do Thánh Louise đề ra phải được thực hiện: chọn cuộc đời của Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh làm mẫu mực cho cuộc sống của chúng ta để sự phục sinh của Ngài trở thành phương tiện mang lại vinh quang cho chúng ta trong cõi vĩnh hằng. Để sống theo cách này, tôi nghĩ rằng tôi phải thường xuyên suy ngẫm về tấm gương của Ngài (SWLM:732 [A.21b]).
4.4 Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô nơi người nghèo và phục vụ người nghèo như thành viên của Chúa Giêsu
Chúng ta hãy yêu mến Đấng là tất cả tình yêu, Thánh Louise đã viết khi ngài chiêm ngưỡng Chúa Kitô bị đóng đinh trên thập giá và rồi hiểu rằng phục vụ những người nghèo là một sự đáp trả của tình yêu đối với Đấng là tình yêu (SWLM: 827-829 [A27]): vậy chúng ta hãy chuyên tâm phục vụ về thể xác và tinh thần cho người nghèo bệnh tật vì tình yêu của Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh (SWLM: 515 [L.531b]).
Tất cả sự phục vụ của mỗi người phải tràn đầy Tình Yêu này: Tôi hy vọng rằng lòng biết ơn của chị em sẽ giúp chị em sẵn sàng nhận những ân sủng cần thiết để phục vụ người nghèo bệnh tật của chị em trong tinh thần dịu dàng và giàu lòng trắc ẩn, noi gương Chúa chúng ta, Đấng đã hành động theo cách này… chỉ có ý định tốt hay ý muốn làm điều tốt chỉ vì tình yêu Chúa thôi thì chưa đủ, bởi vì, khi chúng ta nhận được điều răn yêu Chúa hết lòng, chúng ta cũng nhận được điều răn thứ hai là yêu người lân cận. Để làm được điều này, chúng ta phải đưa ra khuôn mẫu tốt (SWLM; 434-435 [L.383]).
Vào tháng 10 năm 1646, Thánh Louise viết cho các Nữ tử ở Nantes: Các chị có đọc Nội quy và các nghĩa vụ của mình không? Các chị có đọc những kinh buổi tối và buổi sáng cho người bệnh cũng như kinh chúc lành và tạ ơn trong bữa ăn không? Các chị có cung cấp khăn tắm tại giường cho bệnh nhân không? Các chị có duy trì sự sạch sẽ của họ? Đặc biệt, các chị thân mến, các chị có yêu mến ơn cứu độ của họ không? Đó là điều đặc biệt mà Thiên Chúa tốt lành của chúng ta mong đợi ở chị em (SWLM:182 [L.160]). Tôi luôn ngạc nhiên trước bức thư này và mối quan hệ chặt chẽ mà Thánh Louise thiết lập giữa sự kết hợp với Thiên Chúa, phục vụ người nghèo, sự hiệp nhất và sự lịch sự giữa cộng đoàn. Đối với Thánh Louise, đây không phải là những thực tại khác biệt: cầu nguyện, phục vụ người nghèo, quan tâm đến các nhu cầu thể xác và tinh thần, hiệp thông… tất cả những điều này đều xuất phát từ cùng một kinh nghiệm và làm cho việc theo Chúa Giêsu Kitô, Đấng bị đóng đinh, trở thành một thực tại sống động.
Vì Chúa Giêsu Kitô, Đấng bị đóng đinh, muốn trở nên hèn mọn nhất, nên những người nghèo ở thế gian này và những người bị coi là hèn mọn nhất trên thế giới này thực sự là thành viên của Chúa Giêsu Kitô và họ cũng là chủ của chúng ta. Chúng ta tìm thấy trong thư từ và các bài viết của Thánh Louise nhiều cách diễn đạt chỉ ra sự thật rằng, chúng ta gặp gỡ Chúa Kitô nơi người nghèo và chúng ta phục vụ Chúa Kitô khi phục vụ người nghèo: các thành viên của Chúa Giêsu (SWLM:6 [L.1]), các người thầy của chúng ta (SWLM:12 [L.43]), những tạo vật khốn khổ mà Thiên Chúa muốn coi là thành viên của Ngài (SWLM:17 [L.9]), những người chủ yêu quý của chúng ta (SWLM:36 [L.426]), những linh hồn được cứu chuộc bằng máu của Ngài (SWLM:17 [L.9]). Con Thiên Chúa (SWLM:50 [L.41]), các bậc thầy yêu quý của chúng ta, các thành viên yêu quý của Chúa Giêsu Kitô (SWLM:81 [L.547]), các bậc thầy yêu quý của chúng ta, các thành viên của Chúa Giêsu Kitô (SWLM: [L.104b]), qua chính họ, chúng ta phục vụ Chúa của chúng ta (SWLM:314 [L.276]), các thành viên của Chúa Giêsu Kitô (SWLM:409 [L.389]), những người được cứu chuộc bằng máu của Chúa Giêsu Kitô (SWLM:409 [L.389]). Con Thiên Chúa (SWLM:421 [L.367]), các thành viên của Chúa Giêsu Kitô và các bậc thầy của chúng ta (SWLM:468 [L.424]).
Khi khám phá ra người nghèo là chi thể của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta có thể hiểu Thánh Louise đã không ngần ngại tận hiến cuộc đời mình để phục vụ người nghèo như thế nào. Khi phục vụ người nghèo, sơ không bỏ bê việc đào tạo các Nữ Tử Bác Ái… chính điều này đã mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và ơn gọi của bà.
Vì vậy, chúng ta tuyên bố ở đây rằng cốt lõi của linh đạo Vinh Sơn bao gồm những điều sau đây: sống hiệp thông và liên đới với những người bé nhỏ nhất trên thế giới này, phục vụ Chúa Kitô nơi người nghèo, bộc lộ tình yêu của Thiên Chúa với những người đau khổ, thiết lập mối quan hệ và lắng nghe những anh chị em bất hạnh hơn của chúng ta. Thực vậy, ngày nay việc chúng ta đi theo Chúa Giêsu Kitô trở nên khả tín qua việc chúng ta lựa chọn những người nam nữ nghèo nhất.
4.5 Kinh nghiệm là Giáo hội, sống và suy nghĩ như Thánh Cha và do đó chia sẻ sứ mệnh của Giáo hội với giáo dân
Thánh Louise de Marillac rất ý thức được việc mình là thành viên của Giáo hội. Trong nhiều trường hợp, bà coi mình và các Nữ tử như những người con gái của Giáo hội.[42] Vào ngày 15 tháng 12 năm 1645, bà bắt đầu di chúc bằng những lời sau: tôi tuyên bố trước Chúa và trước mọi tạo vật rằng, tôi muốn sống và chết trong Giáo hội Công giáo và Tông truyền, và tôi ra lệnh cho đứa con trai tôi, trong khả năng có thể, cũng làm như vậy (Di chúc của Louise de Marillac, tháng 12 năm 1645).
Louise mong muốn rằng các Nữ tử và những người được giao phó cho bà sẽ cầu nguyện Chúa cho Giáo hội (SWLM:297 [L.253]) và tiếp tục hiệp thông với các thánh và với tư cách là những Kitô hữu tốt lành, cũng tiếp tục hiệp thông với các chiến binh của Hội thánh.[43]
Khi nói về Giáo hội, Louise đã sử dụng nhiều hình ảnh khác nhau từ Kinh thánh và truyền thống: hiền thê của Chúa Giêsu (SWLM: 732 [A.21b]), Mẹ của mọi tín hữu (SWLM: 820-821 [A.26]), thân thể huyền nhiệm (SWLM: 820-821 [A.26]).
Ngày nay, khi nhiều Kitô hữu thù địch với Giáo hội, khi người ta tuyên bố mình là môn đệ của Chúa Kitô, nhưng đồng thời họ lại chống lại Giáo hội, kinh nghiệm của Thánh Louise thách thức chúng ta phải sáng tạo trong việc biến Giáo hội của chúng ta thành ngôi nhà và trường học hiệp thông (một cách diễn đạt được Đức Gioan Phaolô II sử dụng).[44]
Chính tình yêu của Thánh Louise dành cho Giáo hội, cũng như kinh nghiệm sống và suy nghĩ với Giáo hội của bà đã giúp bà và các Nữ tử Bác ái có thể tham gia cộng tác hiệu quả với các linh mục và giám mục và điều đó cũng giúp bà có thể vận động thay mặt cho phụ nữ trong hoạt động tông đồ của Giáo hội (ngày nay chúng ta sẽ nói là biện hộ thay mặt cho giáo dân).
Thánh Louise tin chắc rằng giáo dân, cụ thể hơn là phụ nữ, có một sứ mệnh không thể thay thế trong đời sống Giáo hội. Thánh Vinh Sơn giao phó cho Thánh Louise sứ mệnh đi thăm và khuyến khích các thành viên của Hiệp hội bác ái và trong vai trò này, ngài vận động cho sự tham gia của phụ nữ vào Giáo hội ở thời đại của ngài. Những tường thuật được gửi cho Thánh Vinh Sơn liên quan đến những sự kiện xảy ra trong những chuyến viếng thăm này, là bằng chứng rõ ràng nhất cho sự thật này.[45] Chứng cớ tương tự cũng được tìm thấy trong Bản Quy tắc đã được biên tập lại (SWLM:707 [A46]).
Thánh Louise là người sáng lập và là giám đốc đầu tiên của Hội Bác Ái tại giáo xứ của bà ở Paris. Cùng với Thánh Vinh Sơn Phaolô, bà đã tham gia vào việc khai sinh và phát triển một lối sống mới trong Giáo Hội, cụ thể là việc thành lập các Nữ Tử Bác Ái.
Tất cả các Bà Bác Ái, những phụ nữ nổi bật ở Paris tham gia vào các hoạt động bác ái khác nhau, đều được khích lệ bởi gương sáng và những lời của Thánh Louise de Marillac: trong thế kỷ này, rất rõ ràng rằng Chúa Quan Phòng đã muốn cắt đặt phụ nữ để chứng tỏ rằng, chỉ có lòng nhân lành của Ngài mới mong muốn trợ giúp những dân tộc đau khổ và mang đến cho họ những trợ giúp mạnh mẽ để họ được cứu rỗi (SWLM: 789 [A.56]).
Với tư cách là linh hướng, bà đã hỗ trợ nhiều phụ nữ khác trở nên nhân đức và tham gia vào sứ mệnh chính đáng của họ trong xã hội và Giáo hội. Toàn bộ cuộc đời của Thánh Louise là sự thể hiện tốt nhất sứ mệnh của một người phụ nữ trong Giáo hội.
Nếu, từ góc độ cộng tác và đồng trách nhiệm đối với các đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau, việc tham gia vào sự hiệp thông của Giáo hội và đồng tham gia với giáo dân trong Gia đình Vinh Sơn là những đòi hỏi cấp bách của thời điểm hiện tại, thì kinh nghiệm của Thánh Louise thách thức chúng ta phải sáng tạo và tiếp tục tiến về phía trước theo hướng này.
4.6 Kinh nghiệm cầu nguyện như một lối sống
Một lần nọ, Thánh Vinh Sơn nói, các chị em biết bà Louise, điều nhớ đến đời sống cầu nguyện của bà và nói về điều này trong các cuộc đàm luận được tổ chức sau khi bà qua đời, các buổi đàm luận trong đó các chị có thể nói về các nhân đức của bà. Những đức tính tôi ghi nhận ở bà là bà luôn hướng tâm trí lên Chúa (CCD X:570). Bà có nội tâm sâu sắc và rất say mê với Chúa… bà thực sự được nâng lên cho Chúa, và điều đó xuất phát từ việc từ lâu bà đã đặt nền móng sâu sắc cho đời sống nội tâm của mình… mẹ Le Gras đã có ơn chúc tụng Chúa trong mọi sự (CCD X:574). Chị em có thể tưởng tượng mẹ của chị em đã có một nền tảng nội tâm sâu xa như thế nào, để điều chỉnh trí nhớ của bà theo cách mà bà chỉ sử dụng nó cho Chúa và chỉ muốn yêu Ngài … Qua gương của bà, tôi muốn vượt qua chính mình (CCD X:575). Mẹ Le Gras có ý thức sâu sắc về sự hiện diện của Chúa trong mọi hành động của mình và luôn hướng tâm trí về Chúa trước khi sửa dạy một Chị. bà thực sự muốn biết sự thật của vấn đề trước khi khiển trách ai đó, và thay vì phóng đại sự việc, bà luôn bào chữa cho người chị đã báo cáo cho mình (CCD X:583).
Người viết tiểu sử đầu tiên của Thánh Louise trình bày cho chúng ta một chứng từ tương tự: lời cầu nguyện hiện diện rõ ràng trong mọi khía cạnh của cuộc đời bà… cuộc đời bà tập trung vào Thiên Chúa.[46]
Thánh Louise de Marillac là thầy dạy cầu nguyện đích thực cho các Nữ Tử Bác Ái đầu tiên. Gobillon nói: vị bề trên thiêng liêng và nổi tiếng này rất cẩn thận trong việc đào tạo các Nữ Tử Bác Ái theo tinh thần cầu nguyện. Bà nói về việc cầu nguyện như phương tiện quan trọng và cần thiết nhất để duy trì ơn gọi của mình.[47]
Trong buổi đàm luận về cầu nguyện ngày 31 tháng 5 năm 1648 dành cho các Nữ Tử Bác Ái, Thánh Vinh Sơn đã yêu cầu Thánh Louise giải thích động cơ sống đời cầu nguyện. Thánh Louise nói rằng, một lý do mà chúng ta không bao giờ nên bỏ qua việc cầu nguyện là sự xuất sắc của nó, vì khi chúng ta cầu nguyện là chúng ta đang nói chuyện với Thiên Chúa… một lý do khác, là lời khuyên nhủ mà Con Thiên Chúa đã đưa ra rất nhiều lần, bằng lời nói và gương cầu nguyện với Thiên Chúa, Cha của Ngài (CCD IX:324).
Trong thư từ và bút tích của mình, Thánh Louise đã bổ sung thêm những động cơ khác để sống đời cầu nguyện: trong cầu nguyện, chúng ta tìm thấy mọi lời khuyên mà chúng ta cần (SWLM:227 [L.126]); chúng ta có thể hỏi ý kiến Chúa về các nhu cầu bên trong và bên ngoài của mình (SWLM:434 [L.383]); lời cầu nguyện tô điểm và làm đẹp lương tâm và ý chí để Chúa Giêsu có thể sinh ra trong chúng ta (SWLM:814 [A.45b]); Chúa sẽ luôn chu cấp cho chúng ta và do đó chúng ta phải luôn đáp lại tình yêu của Ngài (SWLM:439 [L.391]).
Thánh Louise không ngừng quan tâm đến lời cầu nguyện của các Nữ tử, đến lòng trung thành và sự kiên trì cầu nguyện của họ.[48] Bà quan tâm lo lắng, vì bà nhận thức được những tác động mà lời cầu nguyện mang lại trong cộng đoàn: sự đoàn kết, lòng khoan dung… (SWLM:509 [l.480] )
Trong một số bức thư của mình, Thánh Louise đề cập đến các sách cầu nguyện khác nhau, Kinh Thần Vụ và các sách suy niệm. Bà giới thiệu những thứ này cho các Nữ tử sử dụng và cũng đưa ra những gợi ý liên quan đến việc đọc và suy niệm thiêng liêng của họ.[49] Trong tất cả các lịch trình và quy tắc đã được Thánh Louise soạn thảo và xem xét, bà đã chỉ định thời gian và cách thức các Nữ tử nên cầu nguyện.[50]
Khi đề cập đến việc huấn luyện cầu nguyện, Thánh Louise đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc sống theo cách thúc đẩy sự kết hợp với Thiên Chúa: duy trì sự hồi tâm nội tâm giữa các công việc của chị em (SWLM:600 [L.580]), hãy đơn giản và nói với đôi mắt tập trung vào Chúa (SWLM:588 [L.566]), hãy để Chúa hoàn toàn làm chủ ý muốn của chị em (SWLM:481 [L.448]), trong mọi sự hãy tìm kiếm sự hiệp nhất với Chúa (SWLM:514 [L.531b]), hành động phù hợp với hành động của Chúa Giêsu (SWLM:770 [A.85]), sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa (SWLM:825 [M.73]), đừng để việc cầu nguyện bị giảm xuống một thời gian cụ thể, mà thay vào đó, hãy kéo dài lời cầu nguyện của chị em suốt cả ngày, để nó trở thành một phần của sứ mệnh và sự phục vụ đã được giao phó cho chị em (SWLM:493 [L.461]).
Thánh Vinh Sơn đã không ngần ngại đề nghị với các Nữ tử Bác ái rằng họ nên lấy Thánh Louise de Marillac làm mẫu mực cho cuộc sống và lời cầu nguyện của mình. Ngài đã nói với họ một cách rất xúc động:
Vâng, chúng ta có bức ảnh này, và các chị em phải coi đó là một khuôn mẫu để truyền cảm hứng cho các chị em làm điều tương tự… Các chị em cũng nên nhớ lại cách bà ấy có xu hướng tuân theo mọi hành động của mình theo những hành động của Chúa. Bà đã làm điều Thánh Phaolô nói: “Không còn là tôi sống nữa mà là Chúa Giêsu sống trong tôi”. Bằng cách này, bà cố gắng làm cho mình giống Thầy mình bằng cách bắt chước các nhân đức của Ngài… Hãy xem đó là một bức chân dung biết bao! Và các chị em sẽ sử dụng nó như thế nào, thưa các chị em thân mến? Bằng cách cố gắng bắt chước cuộc sống của chị em theo bà. Ôi Chúa ơi, hình ảnh đẹp quá! Thật là khiêm nhường, đức tin, thận trọng, phán đoán đúng đắn và luôn quan tâm làm cho hành động của mình phù hợp với hành động của Chúa chúng ta! (CCD X:585).
Chúng ta biết rằng cầu nguyện là yếu tố quyết định trong kinh nghiệm của người tín hữu. Không có cầu nguyện, đời sống Kitô hữu trở nên kém ý nghĩa và sự cam kết của Kitô hữu trở nên kém quan trọng hơn.[51] Một yêu cầu thường xuyên từ các nhóm tiếp cận chúng tôi và chia sẻ mục vụ của chúng tôi là chúng tôi dạy họ cầu nguyện. Thật vậy, một số thách thức đối với Gia đình Vinh Sơn, khi chúng ta suy ngẫm về kinh nghiệm của chúng ta về Thiên Chúa và đời sống cầu nguyện của Thánh Louise de Marillac là: phát triển một phương pháp sư phạm cầu nguyện giúp cho việc cầu nguyện trở thành một lối sống chứ không bị thu hẹp vào một số khoảnh khắc cô lập; để hỗ trợ mọi người hình thành mối quan hệ với Thiên Chúa như Đấng đang sống, hiện diện và tích cực trong cuộc sống của họ (không phải là trung gian giữa trí tưởng tượng và thực tế của họ).
4.7 Kinh nghiệm về Bí tích Thánh Thể, một kho tàng và một di sản của Chúa Giêsu
Thánh Louise trình bày Bí tích Thánh Thể như gia sản của Giáo hội từ Hôn phu của mình và điều này đối với tôi dường như là một kho báu (SWLM: 732 [A.21b]).
Một số bút tích của Thánh Louise về Bí tích Thánh Thể đã được bảo tồn.[52] Trong tất cả những điều này, chủ đề chuẩn bị lãnh nhận bí tích này và những điều kiện cần thiết để rước lễ chiếm ưu thế (điều này không làm chúng ta ngạc nhiên khi nhận ra rằng bà đã viết vào thế kỷ XVII). Tuy nhiên, đồng thời, có một số hiểu biết sâu sắc rất có giá trị cho phép chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của bà: Rước lễ với Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô giúp chúng ta thực sự tham gia vào niềm vui hiệp thông của tất cả các tín hữu (SWLM: 713 [A.15]), trong Bí tích Thánh Thể trên bàn thờ, Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện[53]; trong Bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa mạc khải tình yêu cao cả của Ngài dành cho chúng ta[54]; Bí tích Thánh Thể phải được hiểu từ góc độ kế hoạch cứu rỗi của Con Thiên Chúa, kế hoạch, dưới ánh sáng Nhập thể, là một kế hoạch đến gần nhân loại hơn và cứu rỗi mọi người (SWLM: 784 [A.14]).
Những ân sủng và cảm nghiệm thần bí mà Thánh Louise được phúc nhận luôn diễn ra trong bối cảnh của Bí tích Thánh Thể: tham dự Thánh lễ, rước lễ, sau khi Rước lễ.[55]
Khi Thánh Louise phải du hành, hay khi hướng dẫn các Nữ tử sắp lên đường, bà nói với họ rằng, họ buộc phải thực hiện một chuyến viếng thăm hai lần ở những nơi mà họ dừng lại trên hành trình của mình: một chuyến viếng thăm Chúa Kitô hiện diện trong Mình Thánh Chúa trên bàn thờ (tại nhà nguyện) và một chuyến viếng thăm người nghèo, tại nhà họ hoặc trong bệnh viện. Thật đáng ngưỡng mộ khi thấy mối liên kết này giữa Bí tích Thánh Thể, bí tích trung tâm của đời sống Kitô hữu và người nghèo, bí tích của Chúa Kitô![56]
Trong Thánh Thể, trung tâm của đời sống Kitô hữu, chúng ta sống kinh nghiệm hiệp nhất với Chúa Kitô và những người hợp thành một thân thể trong Chúa Kitô.[57] Sự hiệp thông này với Chúa Kitô kết hợp chúng ta với hành động đầu hàng của Ngài và cũng mời gọi chúng ta trở thành tấm bánh được bẻ ra và chia sẻ bởi anh chị em chúng ta để cứu rỗi người nghèo.[58]
Các thành viên của Gia đình Vinh Sơn có thể tiếp tục tìm thấy nguồn cảm hứng từ kinh nghiệm Thánh Thể của Thánh Louise, giúp họ có thể sống theo chiều kích này của việc đi theo Chúa Kitô.
4.8 Cảm nghiệm về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần
Trong các bức thư và bút tích của Thánh Louise de Marillac, chúng ta tìm thấy nhiều tài liệu tham khảo về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Sự kiện này cho thấy rõ rằng Thánh Louise đã suy ngẫm về các bản văn Tân Ước và thường coi những bản văn này là đối tượng cho lời cầu nguyện của mình.[59]
Thánh Louise mô tả sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Ba Ngôi như một tình yêu và sự thông truyền tình yêu, nhấn mạnh sự kết hợp của các Ngôi vị thần linh như là hiệu quả của tình yêu này (SWLM:768 [A.75], 817 [A.26]). Chúa Thánh Thần, Đấng thực hiện sự hiệp nhất trong đời sống nội tâm của Ba Ngôi, cũng mang lại sự hiệp nhất nơi con người.
Trong nhiều suy tư khác nhau, Thánh Louise de Marillac đã mô tả sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu: Chúa Thánh Thần đã hình thành thân xác Chúa Giêsu Kitô trong cung lòng Đức Trinh Nữ diễm phúc[60]; Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần dẫn vào sa mạc nơi Người bị cám dỗ[61]; khi Chúa Giêsu hứa với các Tông đồ rằng họ sẽ nhận được Chúa Thánh Thần, Ngài cũng nói với họ rằng Người sẽ được tôn vinh bởi cùng một Chúa Thánh Thần.[62]
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ đã tạo ra những hiệu quả hữu hình: sự hiểu biết của các vị được soi sáng và tràn đầy sự hiểu biết cần thiết cho ơn gọi của các vị, ký ức của các vị được hoàn toàn tươi mới nhờ những lời nói và hành động của Con Thiên Chúa, và ý chí của các vị bùng cháy với tình yêu của Ngài và tình yêu đối với người lân cận. Chúa Thánh Thần, tác động mạnh mẽ bởi sự sung mãn nơi họ, đã giúp họ nói và giảng dạy một cách hiệu quả về sự cao cả và tình yêu của Thiên Chúa (CCD IX:324).
Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa gửi đến cho các Tông đồ sẽ an ủi Giáo hội, Mẹ của mọi tín hữu và cũng xác nhận lời dạy của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần củng cố các tín hữu để sống đời thánh thiện, kéo dài sứ mệnh của Ngôi Lời Nhập Thể và khuyến khích mọi người làm chứng cho Chúa Thánh Thần.[63]
Thánh Louise de Marillac đã biết cách nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Bà đã mô tả chính xác cách Chúa Thánh Thần hiện diện và hoạt động trong cuộc đời bà cũng như trong đời sống của Giáo hội. Bà cũng tìm ra cách cử hành thực tại này bằng lời cầu nguyện cá nhân, lời cầu nguyện với các thành viên khác trong cộng đoàn và trong phụng vụ của Giáo hội.
Cảm nghiệm về Chúa Thánh Thần tạo thành một trong những khía cạnh trung tâm (và độc đáo nhất) trong linh đạo của Thánh Louise. Từ những suy tư của mình về Chúa Thánh Thần, bà có thể hình dung ra những kết quả nhất định cho những người theo Chúa Giêsu Kitô: hiệp nhất, tận hiến cho người nghèo, sức mạnh phục vụ người khác, niềm vui… Là thành viên của Gia đình Vinh Sơn và khi chúng ta suy ngẫm về kinh nghiệm của Louise, chúng ta có thể được giúp đỡ, giống như cô, để nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta.
Theo ý thức siêu trách nhiệm của chúng ta, điều mà trong một số trường hợp chúng ta bộc lộ trong thừa tác vụ và phục vụ của mình, cũng như theo giả định của chúng ta là biến đổi thế giới bằng nỗ lực của chính mình, thật tốt khi khám phá và trải nghiệm một thực tại khác, đó là Chúa Thánh Thần là nhân vật chính của sứ vụ.[64]
Đồng thời, việc cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn cũng như việc tham gia phụng vụ của chúng ta có thể được phong phú hơn một cách rõ rệt nếu chúng ta chạy đến với bậc thầy về đời sống nội tâm.[65] Thật vậy, trừ khi Chúa Thánh Thần đến giúp đỡ chúng ta, chúng ta sẽ không biết phải cầu xin điều gì hoặc bằng cách nào nơi bậc thầy của đời sống nội tâm này.
Kinh nghiệm của Thánh Louise về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần chắc chắn là một thách thức đáng kể đối với những người trong chúng ta, những người dấn thân cống hiến sự sống cho đặc sủng Vinh Sơn giữa thế giới ngày nay.
- Kinh nghiệm của Đức Trinh Nữ Maria với tư cách là thầy dạy đời sống thiêng liêng và là người mẹ duy nhất của Tu hội
Đức Maria hiện diện rất nhiều trong các thư từ và bút tích của Thánh Louise.[66] Một số tác phẩm của Louise đã được bảo tồn, những tác phẩm được lấy cảm hứng từ những suy niệm và suy niệm của bà về phẩm giá cao cả của Đức Trinh Nữ Maria. Bà giới thiệu Đức Maria như: Đấng cộng tác của Thiên Chúa trong Nhập Thể (SWLM:784 [A.14]), kết hợp với Chúa Giêsu Kitô sống trong Mẹ (SWLM:735 [A.32b]), tham gia vào mầu nhiệm Thiên Chúa trong Chúa Kitô (SWLM:815 [A.32]), đầy ân sủng (SWLM:815 [A.32]), Mẹ của lòng thương xót và ân sủng (SWLM:774 [A.14b]), cộng tác viên cứu chuộc khi đứng dưới chân thập giá (SWLM:695 [A.4], 831 [M.5b]).
Chúng ta cũng có một suy tư được suy nghĩ kỹ lưỡng và có hệ thống về Thánh Louise, tập trung vào mầu nhiệm Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội.[67] Trong suy tư này, chúng ta khám phá ra chiều sâu suy nghĩ của Mẹ và sự phong phú trong những hiểu biết sâu sắc của Mẹ, những hiểu biết rất soi sáng khi chúng ta cố gắng hội nhập linh đạo Thánh Mẫu vào đặc sủng Vinh Sơn.
Thánh Louise de Marillac đã không ngần ngại đề nghị Đức Trinh Nữ Maria làm mẫu mực cho cuộc sống: mẫu mực cho mọi bậc sống (SWLM:695 [A.4]); mẫu mực của người phụ nữ thực hiện thánh ý Chúa (SWLM:695 [A.4], 704 [A.10]); khuôn mẫu sống khó nghèo (SWLM:493 [L.461]); khuôn mẫu của sự trong sáng..[68]
Trong một bài viết của Thánh Louise, chúng ta có một sự tổng hợp đáng ngưỡng mộ về các yếu tố của lòng sùng kính Đức Maria (SWLM:785-786, [M.33]) và sự tổng hợp này mang tính soi sáng nhất trong thời đại chúng ta. Bà nói, chúng ta nên cử hành phụng vụ các ngày lễ khác nhau để tôn vinh Đức Maria, bắt chước đời sống và các nhân đức của Đức Maria và chọn một số thực hành sùng kính nhỏ.
Ngoài những suy tư và suy niệm về Đức Mẹ, các thư từ và bài viết của Thánh Louise còn chỉ ra một số thực hành sùng kính nhỏ này để tôn vinh Đức Trinh Nữ. Trong lời cầu nguyện của mình, bà đã cầu xin sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Rất Thánh (SWLM:819 [A26]).
Thánh Louise giao phó những người mà ngài yêu quý nhất cho Đức Mẹ: con trai của bà và Tu hội Nữ Tử Bác Ái. Bà muốn Tu hội được thánh hiến cho Đức Maria và bà cầu nguyện để các thành viên của Tu hội sẽ coi Đức Maria là Mẹ duy nhất của họ.[69] Trong những lời cuối cùng với các Nữ tử, trong di chúc thiêng liêng, bà đã nài nỉ: hãy tha thiết cầu nguyện với Đức Trinh Nữ, để Mẹ là Mẹ duy nhất của các con (SWLM: 835, [Di chúc thiêng liêng]).
Chúng ta có thể khẳng định rằng theo kinh nghiệm của Thánh Louise, bà đã gặp Đức Trinh Nữ Maria một cách điềm tĩnh. Là thành viên của Gia đình Vinh Sơn, chúng ta phải uống từ nguồn cảm nghiệm của Thánh Louise để hiểu và sống linh đạo Thánh Mẫu… một chiều kích quan trọng của đặc sủng Vinh Sơn và của bất kỳ ai theo Chúa Kitô[70]… kinh nghiệm đích thực về Đức Maria là thầy dạy thiêng liêng và là Mẹ.
4.10 Kinh nghiệm của cộng đoàn đi theo Chúa và phục vụ Ngài nơi người nghèo, từ đó xây dựng nền tảng hiệp nhất, văn minh và bác ái
Suy tư của chúng ta về giá trị của những kinh nghiệm tâm linh của Thánh Louise de Marillac đối với linh đạo Vinh Sơn ngày nay sẽ không đầy đủ trừ khi chúng ta cũng nói về bác ái, trái tim của mọi nền linh đạo và do đó, trái tim của linh đạo Vinh Sơn.[71]
Thánh Louise muốn Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, trở thành sợi dây yêu thương bền chặt nối kết tâm hồn của tất cả các chị em theo gương hợp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa (SWLM:122, [L.111]).
Tình yêu và sự hiệp nhất là những đặc điểm riêng của một cộng đoàn đã chọn theo Chúa Kitô và do đó kéo dài sứ mệnh của Người giữa người nghèo: chúng ta hãy thực sự yêu thương nhau trong Thiên Chúa, nhưng chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa trong nhau vì chúng ta là của Ngài (SWLM: 159, [L.146]). Tôi tin rằng các chị em chỉ có một trái tim vì Nữ Tử Bác Ái phải trở nên như vậy vì sự kết hợp tồn tại giữa họ (SWLM: 206, [L.182]). Tôi nài xin các chị em hãy đổi mới mình trong tinh thần hiệp nhất và thân ái mà các Nữ tử Bác ái phải có qua việc thực hành cùng một đức bác ái đi kèm với tất cả các nhân đức Kitô giáo, đặc biệt là hỗ trợ lẫn nhau là nhân đức quý giá nhất của chúng ta. Tôi khuyên chị em điều này, càng nhiều càng tốt, như một điều tuyệt đối cần thiết vì nó khiến chúng ta không bao giờ cay đắng nhìn lỗi lầm của người khác, mà luôn luôn bào chữa cho họ trong khi hạ mình xuống. Tôi nài xin chị em cầu xin tinh thần này, tức là tinh thần của Chúa, cho toàn thể Tu hội (SWLM:313 [L.275]).
Tình bác ái sống trong cộng đoàn là con đường dẫn đến sự thánh thiện: Nếu sự khiêm nhường, đơn sơ và bác ái, vốn tạo ra sự hỗ trợ, được thiết lập vững chắc giữa các bạn, thì tu hội nhỏ bé của các chị em sẽ có bao nhiêu vị thánh cũng như có bao nhiêu người vậy. Tuy nhiên, chúng ta không được chờ đợi người khác bắt đầu. Nếu có thể nói rằng những thực hành thiêng liêng này không được áp dụng rộng rãi, thì mỗi chúng ta hãy là người bắt đầu trước tiên. Hơn nữa, chỉ bắt đầu thôi thì chưa đủ bởi vì người bắt đầu một cách quảng đại nên nói:“Tôi sẽ không bao giờ mệt mỏi thực hành những nhân đức này ngay cả khi tôi nghĩ rằng tôi có thể không đạt tới mức độ thánh thiện của người khác.” Điều sau này sẽ không xảy ra (SWLM:532, [L.505]).
Bác ái là cách phục vụ người nghèo của Kitô giáo: vì các chị em là Nữ Tử Bác Ái và vì các chị em biết rằng tình yêu đích thực yêu thương và chịu đựng mọi sự, ngay cả những mâu thuẫn và những điều đáng ghê tởm tồi tệ nhất, tôi mong rằng tất cả các chị em hãy thực hành điều này… Thưa các chị em thân mến, có phải là không hợp lý không khi Thiên Chúa đã tôn vinh chúng ta bằng cách mời gọi chúng ta phục vụ Ngài, chúng ta nên phục vụ Ngài theo cách làm đẹp lòng Ngài (SWLM: 252, [L.319]).
Chứng từ của các Nữ Tử Bác Ái đầu tiên cho thấy cuộc sống của Thánh Louise được đặc trưng bởi đức ái như thế nào: con luôn nhận ra rằng Mẹ có lòng bác ái và lòng khoan dung lớn lao đối với chúng con, đến nỗi Mẹ kiệt sức (CCD X:277); Thưa cha, mẹ hiền từ với con đến nỗi có khi thấy con gặp khó khăn, mẹ lại đối xử với con rất dịu dàng (CCD X:577); Mẹ có tình yêu thương và lòng bác ái lớn lao đối với tất cả các Nữ tử, luôn đồng hành và tha thứ cho họ (CCD X:578); bà có lòng bác ái rất lớn đối với các chị em và sợ làm phiền họ (CCD X:583); con nghe bà nói rằng bà rất yêu quý tất cả các Nữ tử của chúng con và mong muốn tất cả chúng con nên hoàn hảo như Chúa Giêsu Kitô mẫu mực của chúng con (CCD X:584); Một ngày nọ, trong cơn bệnh cuối cùng của bà, con hỏi bà rằng bà sẽ cầu xin Chúa điều gì cho con và cho tất cả các chị em của chúng con. Mẹ nói rằng Mẹ đang cầu xin Ngài ban cho chúng ta ân sủng để sống trong sự hiệp nhất và bác ái cao cả như những Nữ Tử Bác Ái thực sự, như Ngài mong muốn nơi chúng ta (CCD X:585).
Ngày nay hơn bao giờ hết chứng tá của đức ái làm cho những dấu hiệu của vương quốc Thiên Chúa hiện diện giữa thế giới trở nên hữu hình. Chứng tá bác ái mang lại sự tin cậy cho việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.[72]
Là những người theo Chúa Kitô, chứng tá của Bác Ái bắt đầu bằng sự hiệp nhất trong cộng đoàn chứ không phải bằng chủ nghĩa anh hùng vị tha của các cá nhân. Đức Bênêđíctô XVI nhắc nhở chúng ta: Thiên Chúa là tình yêu (Deus Caritas Est): mọi sự đều có nguồn gốc từ tình yêu của Thiên Chúa, mọi sự đều được định hình bởi tình yêu đó, mọi sự đều hướng về tình yêu đó. Tình yêu là món quà lớn nhất Thiên Chúa ban cho nhân loại; đó là lời hứa của Ngài và niềm hy vọng của chúng ta.[73]
Sự nhấn mạnh của Thánh Louise de Marillac về kinh nghiệm của chính bà tiếp tục thách thức chúng ta có một sự sáng tạo mới trong việc bác ái,[74] nhằm mang lại sự sống cho đặc sủng Vinh Sơn trong mọi cộng đồng của Gia đình Vinh Sơn và ở những nơi mà người nghèo tiếp tục kêu cầu Thiên Chúa tình yêu.[75]
Phần kết luận
Khi chúng ta cử hành lễ Thánh Louise, Phụng vụ đặt trước mặt chúng ta bài đọc trích Sách Tông đồ Công vụ 9:36-42. Ở đó, chúng tôi gặp Tabitha, một người phụ nữ nổi tiếng với những việc làm tốt và bố thí.
Cái tên Tabitha có nghĩa là “Linh dương”, loài chạy nhanh… nó cũng biểu thị vẻ đẹp và sự sang trọng. Khi Phêrô đến Gia-phô, ông được mời đến nhà Tabitha. Bà vừa mới mất và mọi người đều muốn Thánh Phêrô phục hồi sự sống cho bà: làm sao Tabitha có thể chết… Tabitha nên tiếp tục sống.
Việc phụng vụ mời gọi chúng ta công bố chứng tá của Tabitha vào lễ Thánh Louise đã khiến tôi đọc những kinh nghiệm của Thánh Louise từ góc nhìn của Tabitha. Thánh Louise de Marillac xinh đẹp, giống như Tabitha, một “linh dương” di chuyển nhanh chóng vì được truyền cảm hứng từ một “Tình yêu” vĩ đại hơn, lòng bác ái của Chúa Giêsu chịu đóng đinh thúc giục chúng ta đáp ứng nhu cầu của người nghèo. Kinh nghiệm thiêng liêng của Thánh Louise phải tiếp tục tồn tại… thật không đúng khi nó ngừng truyền cảm hứng cho chúng ta.
Đối với tôi, dường như thật vô ích khi than thở về việc chúng tôi đã cố gắng trong nhiều năm để tìm hiểu Thánh Louise thông qua nguồn tài liệu viết hạn chế mà chúng ta có được. Tôi tự hỏi về tầm quan trọng của các bài giảng, sự tôn kính, lễ kỷ niệm và cử hành diễn ra trong các dịp lễ Thánh Louise… ý nghĩa của những điều này đối với đặc sủng Vinh Sơn là gì? Tôi tin chắc rằng những lễ kỷ niệm này sẽ không vô ích nếu Thánh Louise de Marillac, giống như Tabitha, được ban cho cuộc sống mới. Cuộc sống mới này sẽ giúp Thánh Louise truyền cảm hứng cho cuộc sống của chúng ta và kinh nghiệm thiêng liêng của mọi thành viên trong Gia đình Vinh Sơn.
Lễ thánh Louise de Marillac 2025
Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM chuyển ngữ từ /wiki.famvin.org
[1] Vincent de Paul, Correspondence, Conferences, Documents, New City Press, New York, New York, 1985-2012, tập XIIIb, tr. 325. Sau đây, các tham chiếu đến tác phẩm này sẽ được ghi chú bằng các chữ cái CCD, tiếp theo là số tập và sau đó là số trang, ví dụ CCD:XIIIb:325. Những trích dẫn này sẽ xuất hiện trong văn bản chứ không phải dưới dạng chú thích cuối trang.
[2] Abelly Louis, The Live of the Venerable Servant of God, Vincent de Paul, [Translated by William Quinn, FCS] New City Press, New York, 1993, volume I, p. 136. Sau đây, các tài liệu tham khảo về tác phẩm này sẽ được ghi chú bằng cách nêu tên tác giả, tiếp theo là tập và số trang, ví dụ, Abelly I:136 và những trích dẫn này sẽ xuất hiện trong văn bản chứ không phải dưới dạng chú thích cuối trang.
[3] N. Gobillon, Vida de la señorita Le Gras, fundadora y primera superiora de la Compañia de las Hijas de la Caridad, siervas de los pobres enfermos (The life of Mademoiselle Le Gras, founder and first superior of the Company of the Daughters of Charity, servants of the sick poor), Ceme, Salmanca, 1991, p. 57.
[4] J. Dirvin, Louise de Marillac, Farrar, Straus and Giroux, Inc., New York, 1970, p. ix.
[5] Bút tích của Thánh Louise de Marillac (Spiritual Writings of Louise de Marillac), edited and translated by Sister Louise Sullivan, DC, New City Press, New York,1991. Tham chiếu tới tác phẩm này trong tương lai sẽ được ghi chú bằng các chữ cái, SWLM theo sau là số trang, tiếp theo là [số chữ cái sẽ được đóng ngoặc] — vào những thời điểm khác, chữ cái “A” hoặc “M” sẽ xuất hiện trong ngoặc và đây là những tham chiếu đến các bài viết khác của Thánh Louise. Tất cả việc đánh số đều phù hợp với ấn bản tiếng Anh. Cuối cùng, đôi khi có rất nhiều tài liệu tham khảo và khi có quá nhiều tài liệu tham khảo, chúng sẽ xuất hiện ở phần chú thích cuối trang thay vì bản văn . Điều này chỉ đơn giản là làm cho việc đọc bản văn dễ dàng hơn.
[6] Trong số những sáng kiến quan trọng nhất mà chúng tôi đề cập ở đây là các Khóa học về Thánh Vinh Sơn dành cho các Nữ tử Bác ái trên khắp Tây Ban Nha (x. Hai mươi lăm năm nghiên cứu về Thánh Vinh Sơn, Anales (2000), trang 605. Năm 1991, Anales đã xuất bản một số nghiên cứu về Thánh Louise nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày sinh của thánh nữ.
[7] N. Gobillon, La Vie de Mademoiselle Le Gras, Fondatrice et premiere Supérieure de la Compagnie des Filles de la Charité, servantes des pauvres maladies, Paris, 1676.
[8] Cf., B. Martínez, Santa Luisa de Marillac: Correspondencia y escritos, Anales (1986), pp. 594-597 (or 194-197), the reference in the Spanish text is unclear since it reads: 594-197.
[9] Editions in the Spanish language: Reflexiones piadosas de la venerable Luisa de Marillac, fundadora de las Hijas de la Caridad sobre materías espirituales, recogidas de sus meditaciones y conferencias, Madrid, 1850 (this is a translation of the fifth volume of Gobillon). P. Grapin, Conferencias hechas por san Vicente de Paúl a las Hijas de la Caridad, Madrid, 1868. Sister Regnord, ed., Espíritu y doctrina de Santa Luisa de Marillac, La Milagrosa, Madrid, 1960.
[10] Louise de Marillac, veuve de Le Gras, Burges, 1886, bốn tập. Tập đầu tiên kể về cuộc đời của Thánh Louise được viết bởi N. Gibillon và ba tập còn lại chứa những bức thư của Thánh Louise và những bài viết khác của bà.
[11] Trong số 206 bức thư mà Thánh Louise viết cho Thánh Vinh Sơn, Pierre Coste đã biên tập một cách nghiêm túc 204… ông cũng đã biên tập 169 bức thư mà Thánh Vinh Sơn gửi cho Thánh Louise.
[12] R. Castañares, Cartas y escritos de santa Luisa de Marillac, ba tập, Madrid, 1945. Cha Castañares sử dụng ấn bản của Chị Geoffrrey cho các bức thư. Đối với các tác phẩm khác của Louise, ông đã sử dụng ấn bản của Burjas. Năm 1875, Sơ María Geoggrey de Chabrignac (1834-1893) bắt đầu phân loại các bức thư viết tay của Thánh Louise và sao chép tất cả các bức thư mà bà tìm thấy trong các kho lưu trữ công cộng và tư nhân. Chị đã chuẩn bị một ấn bản bốn tập của tác phẩm này chưa bao giờ được xuất bản, nhưng dù sao tác phẩm của chị cũng đã cung cấp nền tảng cho nghiên cứu sau này.
[13] L. Baunard, La Vénerable Louise de Marillac, Mademoiselle Le Gras, foundatrice des Filles de la Charité de Saint Vincent de Paul, Paris, 1898. Vida de la venerable Luisa de Marillac, fundadora de las Hijas de la Caridad de San Vicente de Paúl, Madrid, 1904. J. Calvet, Louise de Marillac por elle-méme: Retrato, Ceme, Salamanca, 1977.
[14] Cf., B. Martinez, Santa Luisa de Marillac: Correspondencia y escritos, (Saint Louise de Marillac: Correspondence and Writings), Anales (1986), pp. 594-597 (or 194-197) — the reference in the Spanish text is unclear since it states 594-197.
[15] Saint Louise de Marillac, Spiritual Writing of Louise de Marillac, New City Press, New York, 1991. E. Charpy, ed., La Compañia de las Hijas de la Caridad en sus orígenes: Documentos (The origins of the Daughters of Charity: Documents), Ceme, Salamanca, 2003. Cf., J. Calvet, Louise de Marillac por elle-méme: Retrato, Ceme, Salamanca, 1977. J. Dirvin, Louise de Marillac, Farrar, Straus and Girous, Inc., New York, 1970. M. Flinton, Santa Luisa de Marillac: el aspect social de su obra (Saint Louise de Marillac: the social dimension of her work), Ceme, Salamanca, 1974. N. Gobillon, Vida de la señorita Le Gras (The Life of Mademoiselle Le Gras), Ceme, Salamanca, 199l (translations of this work were done in 1792 and 1834 but these works were incomplete and inaccurate). B. Martínez, Empeñada en un paraíso para los pobres, Ceme, Salamanca, 1995. AA.VV. En tiempos de San Vicente de Paúl … y hoy. Cuadernos Vicencianos, II (At the time of Saint Vincent de Paul … and today. Vincentian Notebooks, II), Ceme, Salamanca, 1999 … several themes that deal with Saint Louise are found in this work on pp. 189-272. C. Delgado, Luisa de Marillac y la Iglesia (Louise de Marillac and the Church), Ceme, Salamanca, 1991. B. Martínez, La señorita Le Gras y santa Luisa de Marillac (Mademoiselle Le Gras and Saint Louise de Marillac), Ceme, Salamanca, 1991. B. Martínez, Ejercicios con Santa Luisa de Marillac. El Espíritu Santo (Retreats with Saint Louise de Marillac: the Holy Spirit), Ceme, Salamanca, 1998.
[16] Perfectae Caritatis, #2.
[17] Congregation for the Institutes of Consecrated Life and Societies of Apostolic Life, Mutuae Relationes, #11, 12, 23.
[18] John Paul II, Vita Consecrata, #37, 71.
[19] Cf., Congregation for the Institutes of Consecrated Life and Societies of Apostolic Life, Mutuae Relationes, #11.
[20] Cf., Congregation for the Institutes of Consecrated Life and Societies of Apostolic Life, Mutuae Relationes, #23
[21] J.M. Román, Santa Luisa de Marillac en la espiritualidad francesa del siglo XVII (Thánh Louise de Marillac và nền linh đạo Pháp của thế kỷ XVII), Anales (1991), 2-31. Ở đây cần đề cập rằng Louise và Vincent bắt đầu có quan hệ với nhau vào cuối năm 1624.
[22] J. Dirvin, op.cit., p. vii.
[23] Revision Commission, Synthesis, Archives of the Daughters of Charity, 2003 Assembly.
[24] J. Corera, Las dos manos del Padre (The two hands of the Father), Anales (1989), p. 348.
[25] Nhiều nghiên cứu liên quan đến đặc sủng Vinh Sơn đã được xuất bản trong những năm gần đây. Xem, AA.VV. Carisma Vicenciano: Memoria y profecía, (Đặc sủng Vinh Sơn: ký ức và tiên tri), Salamanca, Ceme, 2001.
[26] . Cf., Congregation for the Institutes of Consecrated Life and Societies of Apostolic Life, Mutuae Relationes, #11. Paul VI, Evangelica Testificatio, #11. Also see, J. Elizondo, Carisma y Espíritu Vicencianos (Charism and Vincentian Spirit) Vincentiana, 1998, #4-5.
[27] Cf. C. Delgado, La formación humana y Cristiana de Luisa de Marillac (The human and Christian formation of Louise de Marillac, in Santa Luisa de Marillac, ayer y hoy (Saint Louise de Marillac, yesterday and today), Editorial Ceme, Salamanca, 2010, p.111ff.
[28] Robert P. Maloney, The Way of Vincent de Paul, New City Press, New York, 1992, p. 13.
[29] Cf. Ch. A. Bernard, Introducción a la theología espiritual (Introduction to spiritual theology), Estella, Verbo Divino, 2004).
[30] The Conferences on the virtues of Louise de Marillac are found in CCD:X:569-590.
[31] Cf., B. Martínez, Santa Luisa de Marillac: Correspondencia y escritos, Anales (1986), pp. 594-597 (or 194-197 — the exact reference in unclear because the Spanish text reads 594-197.
[32] Phải thừa nhận rằng tầm nhìn của chúng ta về linh đạo Vinh Sơn và những yếu tố của linh đạo này được tìm thấy trong cuộc đời của Thánh Louise de Marillac tương ứng với những gì hiện nay chúng ta có thể đọc và tìm thấy trong các bài viết của bà. Tuy nhiên, khác biệt với các bậc thầy linh đạo khác, cả Thánh Vinh Sơn lẫn Thánh Louise de Marillac đều không truyền lại cho chúng ta một phác thảo có hệ thống về linh đạo của họ hoặc một bản thảo mô tả cách họ sống hàng ngày theo kinh nghiệm của chính họ về Thiên Chúa.
[33] Cf., J.M. Uriarte, Una espiritualidad para nuestro tiempo (A spirituality for our time), in AA.VV. La comunidad de Jesús (The community of Jesus), Idatz, San Sebastián, 1977, pp. 83-113. Some of the challenges that are proposed here are the result of this study.
[34] In J.M. Uriarte, op.cit.
[35] Đại hội về Đời sống Thánh hiến, 2004, (Niềm đam mê Chúa Kitô, Niềm đam mê nhân loại). Xem thêm những suy tư của các cộng đoàn tu trì khác nhau về chủ đề này.
[36] Xem, F. Quintanto, Dios Padre (Chúa Cha), ECOS, 1999, P. 15: Cuộc sống của chúng ta được Ngài nâng đỡ như một tảng đá vững chắc… cuộc sống của tôi tập trung vào Ngài và tôi chấp nhận Ngài cũng như tất cả những gì Ngài nói với tôi; sự tồn tại của tôi bắt nguồn từ Ngài và tôi ở trong tay Chúa. Tôi không cô đơn vì Chúa là nền tảng của con người tôi. Thiên Chúa là nguồn gốc và là định mệnh cuối cùng của tôi. Thiên Chúa biết tôi và yêu tôi và không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Chúa Cha.
[37] Cf., E. Charpy, Spiritualité de Louise de Marillac. Ininéraire d’une femme (Spirituality of Louise de Marillac: a woman’s journey), DDB, Paris, 1995).
[38] Dei Verbum, #4. See also, Hebrews 1:1-2 and Colossians 1:15-20.
[39] Cf., Matthew 25:40, 45.
[40] This phrase is from Martin Bauber; cf., J.M. Uriarte, op.cit.
[41] Cf., John Paul II, Vita Consecrata, #63.
[42] Khi Thánh Louise viết thư cho cha Portail đang ở Rome, tại nguồn của Giáo Hội, bà đã xin Đức Thánh Cha ban phép lành cho tất cả các Kitô hữu, cho bà và cho tất cả các Nữ tử … chúng ta có được niềm hạnh phúc nhân đôi khi được làm Nữ Tử của Giáo Hội thánh thiện (SWLM: 202-203 [L.179]). Chúng tôi tìm thấy những cụm từ tương tự trong một bức thư mà Thánh Louise viết cho M. Berthe, người cũng đang ở Rome (SWLM:409 [l.389]).
[43] Ghi chú của người dịch: tài liệu được đề cập đến trong bản văn tiếng Tây Ban Nha A.95, quy tắc đề xuất dành cho trẻ mồ côi được giao phó cho các Nữ tử Bác ái, tháng 7 năm 1657, không được tìm thấy trong ấn bản tiếng Anh các bài viết của Thánh Louise.
[44] John Paul II, Novo Millennio Ineunte, #43.
[45] Cf., SWLM: 704 [A.50], 705 [A.51], 720 [A53], 722 [A.52].
[46] Cf. N. Gobillon, op.cit., p. 99.
[47] Ibid.
[48] SWLM:25 [L.17], 360 [L.311], 367 [L.326], 509 [L.480], 556 [L.531], 637 [L.618].
[49] SWLM:273 [L.233], 350 [L.345], 434 [L.383], 493 [L.461], 494 [L.463b], 500 [L.504], 633 [L.613], 640 [L.621], 673 [L.651], 682 [L.556].
[50] Cung cấp cho việc cầu nguyện trong tất cả các quy tắc của các tư gia, các văn phòng khác nhau, các cơ sở khác nhau, kể cả khi các nữ tử du hành: SWLM: 765 [L.134], 726 [A.55], 736 [A.80], 737 [A.76], 738 [A.91], 746 [A.88], 754 [A.91b], 770 [A.85], 730 [A.77], 810 [A.93], 805 [A.92], 689 [A.1]; CCD:X:454ff.
[51] Cf., J.M. Uriarte, op.cit.
[52] Cf., SWLM:778: [A42], 779 [A.71], 821 [M.72], 834 [A.49]
[53] Ghi chú của người dịch: bản văn tiếng Tây Ban Nha đề cập đến tài liệu A.48 trong Các Bài viết thiêng liêng của Thánh Louise. Tài liệu này là Sách Giáo lý do bà viết nhưng không có trong ấn bản này.
[54] Ghi chú của người dịch: Một lần nữa, bản văn tiếng Tây Ban Nha đề cập đến Sách Giáo lý mà Thánh Louise de Marillac đã viết nhưng tài liệu này không được tìm thấy trong ấn bản các bài viết của bà.
[55] Cf., SWLM:697 [A.17]. See also, SWLM: 704 [A.50], 725 [A.43], 825 [A.18], 833 [M.8b].
[56] Cf., SWLM:172 [L.159] and 730 [A.77]. The Sisters admired Louise’s love for the Eucharist (CCD:X:584-585).
[57] Cf. 1 Côrintô 10:16-17 — Chén ân phúc mà chúng ta lãnh nhận chẳng phải là thông phần vào thân thể Đức kitô sao? Vì bánh là một, nên chúng ta tuy nhiều nhưng vẫn là một thân thể, vì tất cả chúng ta đều cùng chia sẻ một bánh.
[58] X. Mc 14:22-26
[59] Luisa de Marillac ante el Espíritu Santo (Louise de Marillac and the Holy Spirit), Anales (1998), p. 26-41.
[60] Ghi chú của người dịch: đây là một tài liệu tham khảo khác về sách giáo lý không có trong ấn bản tiếng Anh các tác phẩm của Louise (Mt 1:18).
[61] SWLM 714 [A.5]; Lc 4:2 — Đức Giê-su … được Thánh Thần dẫn vào hoang địa bốn mươi ngày, để chịu ma quỷ cám dỗ.
[62] SWLM 802 [A.25]; Ga 16:13-14 — Nhưng khi Thần chân lý đến, Ngài sẽ tôn vinh ta, vì Ngài sẽ lấy điều của ta mà rao truyền cho các ngươi.
[63] Ga 16:13.
[64] John Paul II, Redemptoris Mission, #21.
[65] Cf., Romans 8:26. The expression interior master is Saint Augustine’s.
[66] . Cf., C. Delgado, Celebraciones marianas inspiradas en la experiencia espiritual de Santa Luisa de Marillac (Marian celebrations inspired by the spiritual experience of Saint Louise de Marillac), Barakaldo, Cuadernos Marillac, 1991; E. Charpy, Un camino de santidad: Luisa de Marillac (A path of holiness: Louise de Marillac), Paris, Casa Madre, 1989; B. Martínez, La señorita Le Gras y santa Luisa de Marillac (Madamesoille Le Gras and Saint Louise de Marillac), CEME, Salamanca, 1991; A. Corona, Donna nella Caritá, 1991.
[67] SWLM:830 [A.31b]; cf., SWLM:734 [M.35b].
[68] SWLM:140-141 [L.303b], 381-382 [L.33], 657 [L.639].
[69] SWLM: 120 [L.110], 121 [L.111], 281 [L.245], 621 [L.602], 617 [L.598], 734 [M33b]; CCD:X:500.
[70] Cf., S. Galilea, El camino de la Spiritualidad, (Con đường linh đạo), Bogotá, Ediciones Paulinas, 1982, p. 104: Đức Maria là hiện thân hoàn hảo của linh đạo Kitô giáo. Phaolô VI, Marialis Cultus, #21: Đức Maria không chỉ là gương mẫu cho toàn thể Giáo hội trong việc thờ phượng Thiên Chúa mà rõ ràng còn là thày dạy đời sống thiêng liêng cho từng Kitô hữu. C. Delgado, Linh đạo Thánh Mẫu và Đặc sủng Vinh Sơn, Vincentiana, 2002, Tập 4-5.
[71] Cf., C. Riccardi, Spiritualità vincenziana. Contributo allo studio del Vicenzianesimo, Roma, Edizioni Vincenziane, 1998.
[72] X. Ga 17:21: Để thế gian tin…
[73] Benedict XVI, Caritas in veritate, #2; cf., 1 John 4:8, 16.
[74] John Paul II, Novo Millenio Ineunte, #50.
[75] Ta đã chứng kiến sự khốn khổ của dân ta (Xh 3:7).