LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA THEO TIN MỪNG LU-CA

0
3300
  1. Dẫn nhập

Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót đã luôn trung tín với những gì Người đã hứa. Mặc cho con người bất trung bội phản, song ý định ngay từ ban đầu Thiên Chúa muốn tạo dựng nên con người để nó hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa vẫn luôn thường trực trong Người. Do đó, tội lỗi của con người không thể phá đổ công trình tạo dựng của Thiên Chúa được. Cách cụ thể, Người đã sai Con Một của mình là Đức Giê-su đến nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a để cứu chuộc nhân loại, đem nhân loại về với mối dây hiệp thông trong ân sủng với Thiên Chúa. Do đó, Đức Giê-su là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là khuôn mặt hiện thực cho lòng thương xót của Thiên Chúa Cha.

Nhiều thánh sử đã viết về cuộc đời và sự Phục sinh của Đức Giê-su, với những mục đích chính yếu khác nhau. Nếu Mac-cô viết chủ yếu về các phép lạ nhằm loan báo Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa đến để thi hành sứ vụ được Thiên Chúa ủy thác, Mát-thêu viết cho đối tượng là Ki-tô hữu gốc Do-thái, nên ông ngầm so sánh bộ ngũ thư của Mô-sê với năm bài giảng của Đức Giê-su nhằm trình bày cho dân chúng những thái độ sống khôn ngoan phải có để chờ đợi Đấng Cứu Thế đến, thì Lu-ca là tác giả trình bày cho dân chúng các dụ ngôn nhằm làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng thương xót trong Tin mừng Lu-ca là chủ đề bao trùm và diễn tả đầy đủ nhất khuôn mặt của Thiên Chúa. Bằng cảm nghiệm cá nhân của một người theo Chúa tuy muộn màng nhưng sâu sắc, Lu-ca đã hiểu rõ lòng bao dung của Thiên Chúa đối với nhân loại thể hiện sống động qua con người Đức Giê-su Ki-tô – Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người. Đó cũng là lý do chúng tôi chọn Tin mừng Lu-ca để viết về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Hơn nữa, chúng tôi thiết nghĩ, việc lựa chọn riêng Tin mừng Lu-ca để bàn về lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ giúp ta có cái nhìn chi tiết khi phân tích các bản văn hơn là bàn về lòng thương xót một cách bao quát cho toàn bộ các tác phẩm Tân Ước. Vì dữ liệu Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta quá dồi dào về đề tài lòng thương xót, nên việc tham vọng để viết về đề tài này trong toàn bộ các văn phẩm Tân Ước sẽ là điều quá tải đối với chúng tôi. Mong rằng, việc tập trung phân tích kỹ Tin mừng Lu-ca sẽ cho chúng ta cái nhìn cô đọng hơn về lòng thương xót của Thiên Chúa trong Kinh Thánh Tân Ước.

Đối với Tin mừng Luca, chúng ta sẽ tiếp cận lòng thương xót của Thiên Chúa theo cách thức sau. Thứ nhất, chúng ta sẽ nêu lên các dụ ngôn nổi bật nói về lòng thương xót của Thiên Chúa. Thứ hai, chúng ta cùng nhìn lại biến cố thương khó và Phục sinh như là đỉnh cao của lòng thương xót. Thứ ba, chúng ta cùng tìm hiểu hình ảnh lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua con người Đức Maria. Cuối cùng, chúng ta cùng đi tìm những phương thế thực hành tinh thần Tin mừng Luca giữa lòng thế giới hôm nay.

  1. Các dụ ngôn về lòng thương xót

Các dụ ngôn nằm trong bối cảnh hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su (Lc 9,51 – 19,27). Trong hành trình này, chúng ta sẽ bắt gặp những lời khuyến thiện (kêu gọi dân ăn năn, kêu mời cầu nguyện, từ bỏ chính mình,…) của Đức Giê-su hơn là các phép lạ hay các sự kiện mang tính mầu nhiệm về Người. Trong Tin mừng Lu-ca, phần hành trình lên Giê-ru-sa-lem là phần dài nhất, và cũng là nét độc đáo của ông. Bởi lẽ, trong Tin mừng Mát-thêu và Mac-cô không cho ta thấy rõ các sự kiện này được sắp xếp theo một chuỗi sự kiện diễn ra như của Lu-ca, khi Lu-ca trình bày các sự kiện gắn liền với hành trình của Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Vì đối với Lu-ca, Giê-ru-sa-lem là tâm điểm của ơn cứu độ. Và Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để hoàn thành công trình cứu độ. Trong hành trình này, ta bắt gặp nhiều sự kiện xảy ra. Nhưng trong đề tài này, chúng ta chỉ bàn đến các dụ ngôn của Đức Giê-su về lòng thương xót.

  1. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,25-37)
  2. Bối cảnh

Lu-ca trình bày cho chúng ta thấy một vị thông luật đến gần Đức Giê-su để thử về giáo huấn của Người có điều gì mới mẽ hay khác thường chăng (xc. Lc 10,25-28). Đức Giê-su đáp lại ông bằng lời khuyên nhủ hãy yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận thì ông ta sẽ được sự sống đời đời. Thế nhưng, vị thông luật còn chất vấn Đức Giê-su, nên Người mới kể cho ông nghe dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (xc. Lc 10,29-37) như là cách ám chỉ ông hãy noi theo đó, hãy làm như vậy để có sự sống đời đời. Do đó, dụ ngôn này như là cách giải thích cho vị thông luật biết cách thực hành các điều kiện đã nêu ra trong Lc 10,25-28 để có được sự sống đời đời.

  1. Ý nghĩa dụ ngôn

Vị thông luật đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng, “thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.  Qua hành vi “hỏi để thử”, chúng ta thấy vị này muốn thách thức giáo huấn của Đức Giê-su, để xem thử Người có dạy những điều chân chính theo luật của cha ông mình từ xa xưa hay không. Chúng ta biết, để được gọi là một luật sĩ Do-thái, người đó phải hiểu luật Do-thái một cách sâu sắc, không những là hiểu luật, là bậc thầy thông luật, người đó còn phải sống những luật lệ đó nữa. Lại nữa, tầng lớp luật sĩ được dân chúng tin tưởng giao cho việc giải thích luật nên chính họ cũng được dân chúng tôn trọng. Ấy vậy mà, vị này lại hỏi Đức Giê-su cách để có được sự sống đời đời. Quả thật, xét như thế chúng ta cũng đã rõ vị thông luật này muốn thử Đức Giêsu.

Vị luật sĩ cũng biết rằng, gia nghiệp của con người không ở tại cuộc sống trần gian này, mà gia nghiệp đó chính là sự sống đời đời. Vấn đề ở chỗ là cách thức để đạt được gia nghiệp đó mà thôi. Trong vấn đề này, đạo luật Do-thái giáo cũng đã hướng dẫn dân chúng cách làm thế nào để đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đức Giê-su là người Do-thái nên cũng biết rõ điều đó, và Người cũng thừa biết vị thông luật quá hiểu về Do-thái giáo. Nên Đức Giêsu trả lời ông, “trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”

Và dĩ nhiên, vị thông luật trích lời tuyên xưng đức tin mà người Do-thái đọc hai lần mỗi ngày trong sách Đệ Nhị Luật, đó là lời kinh Shema: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5).  Đồng thời vì là luật sĩ, nên ông cũng đã khéo léo dẫn chứng thêm ở Lv 19,17-18: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Ta là Đức Chúa.”

Vị luật sĩ đã tóm gọn hai điều cơ bản nhất trong lề luật Do-thái giáo[1] thành yêu Chúa và yêu người. Như vậy, theo Do thái giáo, để có sự sống đời đời, làm gia nghiệp, trước hết con người phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu người thân cận như chính bản thân mình.

Và Đức Giê-su đáp lại: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.” Rõ ràng Đức Giê-su hoàn toàn đồng ý với hai điều răn tóm gọn trên của Cựu Ước. Hành vi yêu Chúa phải đi song song với yêu người. Nhưng vị thông luật lại hỏi  Đức Giê-su: “Ai là người thân cận của tôi?” Đức Giêsu trả lời ông ta bằng cách kể cho ông nghe dụ ngôn người Samari nhân hậu ở Lc 10,30-35.

Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Theo William Barclay, cho đến giữa thế kỷ 20, đoạn đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô vẫn còn là một đoạn đường đầy nguy hiểm, mặc dù nó chỉ dài xấp xỉ 30 km. Giê-ru-sa-lem ở độ cao hơn mặt nước biển khoảng 766m đi về phía Giê-ri-khô là về phía biển chỉ còn thấp hơn mặt nước biển 433m, nên thánh Lu-ca gọi là đi xuống. Và đoạn đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô qua nhiều đèo hiểm trở chật hẹp. Vào thế kỷ V, thánh Giê-rô-ni-mô cho chúng ta biết con đường này còn có tên là “con đường đỏ hay con đường máu”. Đến thế kỷ XIX ai muốn đi qua con đường này cũng phải trả tiền an ninh cho chính quyền địa phương để được bảo đảm an toàn, vì thường có cướp giật ở trên đường. Năm 1930, H.V Morton được cảnh báo nếu đi đường này thì phải về nhà trước lúc trời tối vì có tên cướp Abu Jidah thường trốn sau các hẻm núi để cướp ô tô của hành khách. Như thế, Đức Giê-su đã thuật lại cho ta  một sự việc rất thực tế thường xảy ra trên con đường này.

Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Sách Đệ Nhị Luật trình bày cho chúng ta biết tư tế là những người thông luật, làm trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en. Việc của họ là làm trung gian giữa Thiên Chúa với dân của Người qua hành vi phụng tự và thỉnh ý Thiên Chúa. Ngoài ra, họ còn có nhiệm vụ giảng dạy, truyền đạt các lệnh truyền, các giới răn của Thiên Chúa và hướng dẫn dân chúng thực hành trong đời sống hằng ngày.

Một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Chương 3 sách Dân số cho ta biết, Lê-vi là những người thay thế các con đầu lòng trong dân Ít-ra-en, được thánh hiến để phụng sự Thiên Chúa. Chương 9 sách Nơ-khê-mi-a cho chúng ta biết thêm rằng, các thầy Lê-vi giúp dân cử hành phụng vụ, ôn lại lịch sử tình thương của Thiên Chúa với dân, nhắc cho dân nhớ lại giao ước và giữ Lề Luật của Thiên Chúa. Họ đọc và giải thích sách Luật của Thiên Chúa cho dân được hiểu.

Như vậy, các tư tế và các thầy Lê-vi là những người thông luật, có nhiệm vụ hướng dẫn dân chúng đi theo đường lối công chính của Thiên Chúa. Họ là trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người. Thế mà khi đi ngang đường, trông thấy một người bị cướp đang nằm bên vệ đường trong tình trạng nửa sống nửa chết, ông tư tế tránh qua bên kia đường và ung dung rảo bước. Đến lượt vị thầy Lê-vi đi ngang qua đường và cũng nhìn thấy nạn nhân đang trong tình trạng thương tích đầy mình, như thầy tư tế, thầy Lê vi cũng “tránh qua bên kia mà đi”.

Sự kiện này gợi lên trong ta một hình ảnh tương phản biết nhường nào khi đây là hai vị hằng ngày sống và giải thích Luật của Thiên Chúa cho dân chúng. Luật của Thiên Chúa trong dân chỉ tóm lại trong hai điều cốt yếu là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương người thân cận như chính bản thân mình. Điều đó, dường như con cái Ít-ra-en đều thuộc nằm lòng. Nhiệm vụ của tư tế và Lê-vi có chăng là hướng dẫn dân thực hành Luật trong đời sống của họ. Ấy vậy mà câu chuyện cho ta thấy một hình ảnh trái ngược hẳn. Thầy tư tế và Lê-vi là những kẻ nói mà không làm, rao giảng mà không giữ điều họ rao giảng. Họ như các kinh sư trong Mt 23,1-7 bị Đức Giê-su khiển trách là phường đạo đức giả, buộc luật lệ lên vai dân chúng nhưng chính họ thì không đã động ngón tay vào.

Và rồi, một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Nguồn gốc của người Sa-ma-ri là do pha trộn giữa dân Ít-ra-en và dân ngoại, do đó dân Ít-ra-en thuần chủng không coi dân Sa-ma-ri là anh em cùng chủng tộc của mình nữa. Lý do là sau khi thành Sa-ma-ri, thủ đô vương quốc Ít-ra-en ở miền Bắc, bị sụp đổ năm 722 trước công nguyên, và Sa-ma-ri đã trở thành thuộc địa của Át-sua. Một số dân cư thành Sa-ma-ri bị vua đế quốc Át-sua là Xác-gon II đưa đi lưu đày. Vua Xác-gon II cũng đem một số dân ngoại từ các nơi khác như Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến sống chung với dân Ít-ra-en còn lại trong thành Sa-ma-ri. Như thế, dân Ít-ra-en ở tại Sa-ma-ri không thuần chủng là dân Ít-ra-en nữa. Đồng thời, vì là thuộc địa nên họ cũng chịu ảnh hưởng bởi các lễ nghi tôn giáo ngoại lai của các dân khác đem đến. Bởi vậy mà có sự kỳ thị giữa người Ít-ra-en thuần chủng và người Sa-ma-ri. Người Ít-ra-en luôn cho mình là dân riêng của Thiên Chúa, sống đúng lề luật của Thiên Chúa. Và họ cũng khinh miệt dân Sa-ma-ri là những kẻ phản bội, kẻ ngoại giáo thờ tà thần. Họ coi dân Sa-ma-ri là dân ngoại, dân lai căng lạc đạo, dân không sống đúng Lề Luật của Thiên Chúa nữa.

Vậy mà trong dụ ngôn, người Sa-ma-ri đi qua người bị nạn nằm trên vệ đường thì lại chạnh lòng thương. Một hình ảnh quả là tương phản với những gì dân Ít-ra-en nghĩ về dân Sa-ma-ri, càng tương phản hơn nữa khi những kẻ không thực hành lòng thương xót lại là những bậc thầy của dân Ít-ra-en dạy cho dân chúng việc thực hành lề luật trong đời sống hằng ngày. Người Sa-ma-ri không những chạnh lòng thương cảm mà còn sẵn sàng hạ mình xuống phục vụ người bị nạn với một tư thế rất ân cần. Hành động của người Sa-ma-ri đem đến cho người gặp nạn một cảm giác vô cùng an toàn như đang được sự chăm sóc của chính người thân ruột thịt của anh ta vậy.

Quả thật, “ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc”. Không những bỏ công sức và thời gian ra để phục vụ người gặp nạn, người Sa-ma-ri còn bỏ cả của cải vật chất cho người gặp nạn ven đường nữa. “Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.”” Hành động yêu thương một cách cụ thể đó khiến cho những người nghe Đức Giê-su kể dụ ngôn cũng không thể tưởng tượng nỗi. Chắc hẳn khi người thông luật nghe dụ ngôn đó cũng lấy làm hỗ thẹn lắm, vì chính bản thân ông cũng là một người hay giảng dạy dân Ít-ra-en sống giới luật yêu thương trong cuộc sống hằng ngày. Đến đây ta thấy những lời dạy đó của họ quả là sáo rỗng.

Hành động yêu thương của người Sa-ma-ri đã khiến người thông luật vượt qua đỗi xấu hổ mà khẳng định với Đức Giê-su rằng, trong ba người đi đường, thì chính người thực thi lòng thương xót là người thân cận của người bị nạn. Đức Giê-su liền nói với người thông luật rằng,“ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.” Thế nên, để được sự sống đời đời làm gia nghiệp, Đức Giê-su dạy người thông luật phải thực thi lòng thương xót đối với tất cả mọi người, kể cả đó là người mình thù ghét. Lòng thương xót đó không chỉ dừng ở đầu môi chót lưỡi, nhưng phải thể hiện qua hành vi cụ thể. Hành vi thương xót cụ thể là giá trị để đánh giá người mình thân cận là ai!

  1. c. Bài học thực hành

Những lời giảng dạy của các luật sĩ và thầy Lê-vi là những lời tốt đẹp, phù hợp với luật của Thiên Chúa. Họ là những người chuyên lo việc tế tự nên những lời giảng dạy của họ luôn hướng con người tới điều thiện hảo, đẹp lòng Thiên Chúa. Thế nhưng, chúng ta không nên nhìn vào đời sống của họ để biến những lời giảng dạy của họ ra tiêu cực. Vì chưng, lối sống của họ ngược lại với lời giảng dạy của họ. Dường như họ giảng dạy như bổn phận làm công ăn lương mà không đúng với bản chất sứ vụ của họ. Sứ vụ ngôn sứ và phục vụ bàn thờ của họ đã biến thành phàm tục qua cách sống phản chứng của chính họ. Đức Giê-su cũng đã cảnh báo với dân: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường,7 ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “Ráp-bi” (Mt 23,1-7).

Vậy nên, chúng ta không nên nghe suông lề luật, mà phải hành động. Thánh Gia-cô-bê tông đồ nói rằng, Anh em thân mến, nếu có ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Ðức tin như thế có thể cứu được nó ư? Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: “Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm”, mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì? Về đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm, là đức tin chết tận gốc rễ…. Do đó anh em có thấy rằng: người ta nhờ việc làm mà được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi không? Quả vậy, cũng như xác không hồn là xác chết, thì đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,14-26).

Hành vi yêu thương là thước đo cho ta biết ai là người ta thân cận. Tình yêu thương con người phải được chứng tỏ bằng những hành động thiết thực. Con người thường có thái độ động lòng trắc ẩn, thương cảm đối với những mãnh đời bất hạnh. Thế nhưng, từ lòng trắc ẩn đến một hành vi chìa đôi bàn tay ra để phục vụ hay cứu lấy người anh em mình trong lúc cùng khốn là cả một chặng đường thật dài. Chỉ vì con người không muốn chuốc sự phiền toái vào mình. Ai cũng muốn mình được thảnh thơi, được nhàn hạ, sung sướng,… Do đó, việc phục vụ người khác sẽ chiếm hết thời gian và tiền bạc của chính mình. Tiền bạc và thời gian là những gì thân thiết với mình, gắn bó với mình như máu mủ. Do đó người thực hành tình thương bằng cách bỏ ra thời gian và tiền bạc để phục vụ người anh em thì người đó chính là người thân thiết của mình. Người thân cận khi đó là người chúng ta phục vụ và người phục vụ chúng ta chứ không đơn thuần là người họ hàng ruột thịt mà chúng ta không mảy may ngó ngàng tới. Vậy nên, tình yêu hành động là thước đo cho ta biết tương quan của ta và tha nhân ở mức độ nào!

Qua câu chuyện của người Sa-ma-ri, chúng ta thấy hành vi yêu thương vượt qua biên giới của tình máu mủ, màu da, sắc tộc. Khái niệm người thân cận ở đây còn vượt xa khái niệm người đồng hương, để đi đến với một tình yêu đại đồng. Hành động yêu thương của người Sa-ma-ri đối với người Ít-ra-en bị nạn đã cho ta bài học quý giá đó. Trong thế giới ngày nay, các quốc gia dường như đang xích lại gần nhau hơn, tương quan giữa các quốc gia dân tộc là tương quan trong thế giới phẳng và đồng trách nhiệm trong cộng đồng chung. Cộng đồng chung Châu Âu, Cộng đồng ASEAN, Liên Hiệp Quốc,… Các tương quan này cho ta thấy con người ngày nay đang có một tình liên đới chung trên tinh thần yêu thương và đồng trách nhiệm.

Chúng ta nên bắt chước người Sa-ma-ri trong cách thực hành yêu thương. Người Sa-ma-ri đã yêu thương bằng tình yêu vô vị lợi. Người bị nạn trong tình trạng sống dở chết dở, không có chút gì để lợi dụng, vậy mà người Sa-ma-ri đã khoan dung chìa tay ra phục vụ chu đáo. Hơn thế nữa, người bị nạn ở đây lại là người Ít-ra-en, những người coi dân Sa-ma-ri là ngoại lai, là thù nghịch,… Vậy mà người này không chút lãng tránh, hay báo thù, lại còn tân tình phục vụ chu đáo. Ngày nay, tình yêu thương đó trong các cộng đồng chung của các khu vực trên thế giới cũng nên dẹp bỏ tình trạng lợi dụng nước giàu bắt ép nước nghèo, người da trắng khinh chê da màu, có nhiều nước thì dư thừa của cải vật chất còn có những quốc gia lại không được đầy đủ cái ăn cái mặc,…

Để đạt được sự sống đời đời, chúng ta phải có tình yêu thương đồng loại như người Sa-ma-ri nhân hậu. Tình yêu thương giữa người với người là điều kiện tiên quyết để Thiên Chúa phán xét con người. Tin mừng Mt 25,31-46 cho chúng ta thấy rõ hơn về điều này trong việc phán xét. Trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta dựa trên những hành động yêu thương thực tế mà chúng ta làm cho người anh em của mình. Người sẽ phán xét chúng ta dựa vào việc có cho người đói ăn hay không, cho người khát uống hay không, thăm viếng kẻ tù tội hay không,…. Những hành động thực tế đó chính người Sa-ma-ri đã thực hành trong dụ ngôn và Đức Giê-su cũng mời gọi chúng ta thực thi lòng thương xót đó đối với anh em mình. Noi gương người Sa-ma-ri nhân hậu, chúng ta cũng hãy đi và làm như vậy.

Các dụ ngôn về Lòng Thương Xót trong chương 15 của Tin mừng Lu-ca

Bối cảnh chung cho ba dụ ngôn

Đức Giê-su kể dụ ngôn này cho những người Pha-ri-sêu và các kinh sư nghe, khi họ xầm xì với nhau về việc Người tiếp xúc với phường thu thuế và quân tội lỗi, và Người lại còn đồng bàn ăn uống với họ nữa (xc. Lc 15,1-3). Những người thu thuế và quân tội lỗi là những hạng người luôn sống trong sự ghẻ lạnh của xã hội. Họ luôn sống dưới cái nhìn khinh miệt của mọi người. Và chính bản thân họ cũng mặc cảm về điều đó. Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a, Người đến để cứu những người tội lỗi. Người đến ở cùng những người tội lỗi để đem họ về với đường ngay nẻo chính. Nhu cầu hướng thiện, được nghe những lời giảng dạy của phường thu thuế và quân tội lỗi, là vô cùng lớn. Không những giảng dạy, Đức Giê-su cùng đồng bàn với họ nữa, cùng ăn chung với họ. Hành động cùng đồng bàn ăn chỉ sự hòa đồng, nên một trong nhân phẩm của Đức Giê-su với phường tội lỗi. Chính điều đó làm cho những người Pha-ri-sêu và các kinh sư xầm xì bàn tán, tỏ vẻ khinh miệt Đức Giê-su. Vì trong mắt họ, nếu Đức Giê-su là Mê-si-a thì Người phải giảng dạy ở chốn thanh cao, tránh xa đám đông tội lỗi,… Vì chính họ là những tư tế và luật sĩ cũng thường làm như vậy. Họ giảng dạy và phục vụ trong đền thờ, không tiếp xúc với những kẻ bị coi là tội lỗi. Hành động của Đức Giê-su quả nhiên đi ngược lại hoàn toàn với hành động của họ.

Vì Người ý thức được sứ vụ của Người đến là cứu chữa người tội lỗi, đem họ trở về với Thiên Chúa. Bởi thế, sau khi nghe giới luật sĩ xầm xì những lời không hay về Người, Đức Giê-su liền kể cho họ nghe các dụ ngôn: Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,4-7); Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10); Và dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15,11-32).

  1. Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15, 4-7)
  2. Ý nghĩa dụ ngôn

Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, mà lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Dụ ngôn này ám chỉ người có một trăm con chiên đây chính là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Bởi lẽ, theo thói đời, nếu ông chủ là một người bình thường, ắt hẳn ông sẽ không tốn công sức tìm cho kỳ được một con bị thất lạc, trong khi lại để chín mươi chín con kia lại mà không có ai săn sóc! Vì tính toán của con người luôn muốn cái lợi trước mắt, luôn muốn cái lợi hơn thuộc về phía mình. Nếu ông chủ là con người thì ông sẵn sàng đánh đổi con chiên bị lạc để bảo đảm chín mươi chín con kia vẫn thuộc về mình! Chủ chiên trong dụ ngôn này không làm như vậy, mà ông quyết tìm cho kỳ được con chiên bị lạc.

Hành động này cho thấy lòng yêu thương, quan tâm săn sóc từng con chiên một của ông chủ. Ông chủ này ý thức được mỗi con chiên là một giá trị hiện hữu riêng, không giống các con khác. Và giá trị tự hữu đó thuộc về mỗi con, chứ không phải thuộc về tư lợi của chủ chiên. Ông chủ ý thức được điều đó nên ông cố cất công đi tìm. Mục đích chính của ông trong dụ ngôn là tìm được con chiên lạc để đưa về đàn chiên cùng chín mươi chín con kia. Ông chủ này chỉ có thể là Thiên Chúa mà thôi! Người sẵn sàng đánh đổi lợi ích của bản thân mình để cho con người được sống và sống tròn đầy.

Tìm được rồi, người ấy vác trên vai. Hành động vác trên vai cho chúng ta thấy lòng yêu thương của chủ chiên đối với con chiên lạc trở về. Vác chiên lên vai mang ý nghĩa của sự sung sướng tự trong lòng chủ, hành động lo lắng tìm chiên nay biến thành tình thương đối với con chiên lạc đó. Dường như người chủ thương con chiên lạc này một cách đặc biệt, tại ông thấy sự thua thiệt của nó với các con còn lại. Ông vác lên vai để tỏ lòng nâng niu nó, bảo vệ nó, chở che và bù đắp cho nó trong thời gian nó bị thất lạc giữa chốn núi rừng hoang vu và có thể đã gặp phải sự đe dọa của thú rừng.

Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói, “xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.” Giá trị của một con chiên sau khi đã tìm thấy nếu tính về vật chất thì không đáng để cho ông chủ phải đánh đổi cả một bữa tiệc chung vui với hàng xóm. Ông chủ không phải là người bình thường nên ông không tính kinh tế thiệt hơn theo kiểu con người. Vì ông chủ ở đây là Thiên Chúa, nên Người yêu thương và quý trọng giá trị hiện hữu đích thực của con chiên hơn là giá trị vật chất. Ông mở tiệc mời hàng xóm đến vì ông đang trong tâm trạng rất vui, ông sung sướng vì đã tìm thấy con chiên lạc. Nếu như con chiên mãi mãi lạc mất khỏi ông, thì ông cũng chẳng mất gì, nhưng ông sung sướng vì nó được hiện hữu trước mặt ông, được ông tiếp tục là chủ của nó. Giá trị của bữa tiệc chung vui đó là ở chỗ giá trị hiện hữu đích thực trước mắt ông chủ của con chiên. Hiện hữu trước mắt ông chủ là được ông chủ biết đến, được ông quan tâm, chăm sóc, được ông sáng tối chăn dắt, đưa ra chỗ nước trong lành và đồng cỏ xanh tươi. Ý thức được điều đó, đồng nghĩa với việc ông chủ biết một con chiên lạc, không được ông chăn dắt sẽ đau khổ biết nhường nào. Do đó, ông mở tiệc vui một phần chính ông vui, phần khác là ông vui thay cho con chiên lạc đó.

Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn. Dụ ngôn được Đức Giê-su làm sáng tỏ ra khi Người cho biết con chiên lạc trong tình cảnh này chính là người tội lỗi. Hành động sám hối trở về với Thiên Chúa của người tội lỗi được ví như con chiên lạc. Như ông chủ vui vì tìm được con chiên lạc trở về thế nào thì Thiên Chúa cũng hân hoan sung sướng như thế khi một người tội lỗi sám hối trở về cùng Thiên Chúa. Quả thật, chính Đức Giê-su cũng đã nói, Người đến để kêu gọi người tội lỗi chứ không phải kêu gọi người công chính (xc. Mc 2,17). Thiên Chúa giàu lòng thương xót hằng quan tâm săn sóc đến từng người, Người muốn cho tất cả mọi người hiện hữu có giá trị trước mặt Người. Người dựng nên con người và Người biết mỗi người có một giá trị không thể đánh đổi trước mặt Người. Do đó, Thiên Chúa luôn luôn chờ đợi con người sám hối ăn năn trở về cùng Người. Con người sám hối ăn năn trở về với Thiên Chúa sẽ được Thiên Chúa đón nhận, mở tiệc ăn mừng chứ không phải chờ con người quay lại để báo thù và giáng phạt. Cách hành xử của Thiên Chúa khi làm chủ khác với thái độ làm chủ của con người là ở chỗ đó.

  1. Bài học thực hành

Thiên Chúa là ông chủ đầy tính trách nhiệm và giàu tình thương. Một con thất lạc chẳng đáng là gì so với chín mươi chín con kia, thế nhưng Người sẵn sàng bỏ lại chín mươi chín con để cất công đi tìm con chiên lạc. Hành động đó cho thấy, Thiên Chúa là ông chủ đầy tính trách nhiệm với đoàn chiên. Người chăn chiên, không để chiên bơ vơ vất vưởng một mình. Tinh thần trách nhiệm đó đòi hỏi Thiên Chúa phải cất công đi tìm cho kỳ được. Trong đời sống hằng ngày, là một Ki-tô hữu, chúng ta cũng mang trong mình nhiều trách nhiệm khác nhau, trách nhiệm với bản thân, với cộng đoàn, với gia đình,… Thử hỏi mình đã chu toàn bổn phận, trách nhiệm của mình trong cộng đoàn chưa?

Tinh thần trách nhiệm đó không chỉ đòi hỏi ta chu toàn bổn phận theo kiểu của triết học Kant. Nhưng cao cả hơn, phải có tình yêu đặt vào trong trách nhiệm đó. Tình yêu đi liền với trách nhiệm làm cho công việc của chúng ta được vận hành theo đúng tinh thần của người Ki-tô hữu, nghĩa là làm mọi việc vì lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Tình yêu và lòng thương xót đó sẽ giúp ta giải quyết các vấn đề tưởng chừng khó khăn ra nhẹ nhàng. Tình yêu của người có trách nhiệm không phải là tình yêu vị kỷ, không mưu cầu lợi ích cho bản thân mình nhưng cho cộng đoàn, cho từng người trong cộng đoàn mà mình nhận trách nhiệm. Tình yêu đó khiến người chủ đặt giá trị và lợi ích của từng cá nhân trong cộng đoàn lên trên cả lợi ích của bản thân mình. Chỉ có lòng bác ái Ki-tô giáo đòi buộc chúng ta mở rộng tâm hồn ra để yêu thương bằng tình yêu xả kỷ như thế. Hành động của ông chủ trong dụ ngôn trên đã cho chúng ta thấy rõ điều đó.

Mang thân phận tội lỗi, chúng ta cũng đừng lấy làm mặc cảm mà trốn tránh sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng chậm giận và giàu lòng thương xót, Người luôn trông đợi chúng ta trở về với Người. Ý thức được điều đó, chúng ta cũng nên dẹp bỏ cái tôi mặc cảm, sợ sệt, tự ti,… để trở về với Thiên Chúa. Chúng ta cũng từ bỏ việc làm tôi ma quỷ, tiền tài, danh vọng, lạc thú,… Chúng là những ông chủ khiến ta phải hóa kiếp thành nô lệ của chúng, để trở về với Thiên Chúa là chủ đích thực của đời mình. Khi để Thiên Chúa làm chủ đời mình, con người mới hiện hữu đúng giá trị của mình. Giá trị của con người hệ tại ở chỗ sống thánh thiện và công chính trước nhan Thiên Chúa.

  1. Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10)
  2. Ý nghĩa dụ ngôn

Người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? Đồng quan là đơn vị tiền tệ của người Hy-lạp, tương đương với quan tiền Rô-ma, một đồng là tiền công nhật dùng để trả cho người làm công thời bấy giờ. Do đó, đối với một người chỉ có mười đồng quan thì việc mất đi một đồng là một mất mát lớn về tài sản của họ[2]. Vậy nên, ta mới hiểu người phụ nữ này phải cất công đốt đèn, quét nhà để tìm cho kỳ được đồng quan mà bà rất có thể đã đánh đổi bằng một ngày lao công vất vả, mồ hôi nhể nhải của mình. Khi đánh mất một đồng quan đó, bà mới thấm thía nỗi đắng cay cơ cực của cuộc đời, thấm thía được giá trị của lao động. Bà muốn tìm lại đồng quan là công khó của mình làm ra. Do đó, bà rất trân trọng đồng quan đó. Và bà quyết tìm cho kỳ được đồng quan đó.

Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè hàng xóm lại và nói, “xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất”. Hình ảnh trên cho ta thấy niềm vui của người phụ nữ khi tìm được đồng quan. Bà ta vui mừng chưa đủ mà còn mời gọi mọi người cùng chung niềm vui với mình. Niềm vui tìm được lại đồng quan như là một điều gì đó rất lớn lao cao cả đối với bà. Giá trị của đồng quan đó bây giờ không đơn thuần là giá trị vật chất nữa, mà là như một điều gì đó gắn bó thân thiết với bà, gắn bó với cuộc sống của bà, và cũng chính là một phần mồ hôi cao lao vất vả của chính bà. Do đó, bà rất vui mừng vì đã tìm lại được đồng quan. Vậy nên, hành vi kêu mời bà con chòm xóm ăn mừng với bà chẳng có gì là lạ. Đức Giê-su kể dụ ngôn này với niềm vui mừng phấn khởi của người phụ nữ sau khi tìm lại được đồng quan bị mất để nhấn mạnh đến niềm vui của Thiên Chúa khi Người thấy một người tội lỗi sám hối quay về cùng Thiên Chúa.

Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối. Một người tội lỗi ăn năn sám hối quay về với Thiên Chúa, Người sẽ vui mừng biết dường nào. Lòng thương xót của Thiên Chúa không ngần ngại đón nhận hối nhân trở về mà còn mời gọi chư vị thiên thần cùng các thánh trên Nước Trời vui mừng cùng Người. “Giữa triều thần Thiên Chúa” đồng nghĩa với “trên thiên đàng” mà Lu-ca đề cập trong chương 7. Hình ảnh triều thần Thiên Chúa cũng được mô tả trong các chương 2,13-15; 9,26; 12,8-9. Trong câu chuyện của Lu-ca, những hình ảnh đó đóng vai trò như là sứ điệp của Thiên Chúa đến với con người[3]. Niềm vui này của Thiên Chúa là niềm vui của người phụ nữ tìm lại được đồng quan của mình. Vì người ăn năn sám hối này vốn thuộc về Thiên Chúa, gắn bó với Người, chính Người tạo nên, nay đã quay về lại hưởng hạnh phúc cùng với Người.

  1. Bài học thực hành

Việc cố công tìm lại những gì thuộc về mình cũng là một hành động của lòng thương xót. Hành động ấy biểu lộ sự trân quý của chúng ta đối với người và vật vốn thuộc về mình. Chúng ta tìm lại những gì thuộc về mình, hàn gắn mối dây liên kết giữa mình với người và vật trong niềm vui là cách biểu lộ sự chân thành của bản thân. Muốn tìm lại được, chúng ta phải cất công đi tìm, bằng nhiều cách thức. Sự tìm lại đòi hỏi phải có một cái giá là chính sự hy sinh của bản thân ta.

Trân trọng vật chất là giá trị của lao động. Một đồng quan tưởng chừng rất nhỏ nhưng cũng là giá trị lao động của một ngày. Qua đó, chúng ta cần ý thức trân trọng những gì gọi là tài sản, của cải vật chất dù là nhỏ nhất. Có thể những vật đó chúng ta không trực tiếp làm ra nhưng là của mồ hôi công khó do người khác tạo nên, chúng ta phải biết trân trọng trong cách sử dụng chúng. Hành động đó cũng thể hiện lòng thương xót của chúng ta trên chính vật chất và trên chính tha nhân vậy.

  1. Dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15,11-32)
  2. Ý nghĩa dụ ngôn

Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng’, và người cha đã chia của cải cho hai con. Khung cảnh câu chuyện trong dụ ngôn cho phép ta nghĩ rằng, người cha là một ông chủ nông trang giàu có, với ruộng vườn rộng lớn, gia súc đầy đàn, cùng tôi trai tớ gái phục dịch ngày đêm. Theo luật thừa kế của người Do-thái được nhắc đến trong sách Dân số 27,8-11 hoặc 36,7-9, con cái trong gia đình có quyền thừa kế tài sản của cha, để tài sản đó luôn được duy trì trong gia tộc, không để tài sản đó phân tán ra gia tộc khác. Lại nữa, trong sách Đệ Nhị Luật 21,15-17, ta lại thấy khi chia sản nghiệp thì người cha phải chia cho con trai trưởng hai phần sản nghiệp. Như thế, người cha trong dụ ngôn này chia tài sản cho con trai út là điều hợp lệ. Và tài sản của người con trai thứ nhận được là một phần ba sản nghiệp của người cha. Người con thứ ý thức rõ điều đó, và anh ta đã muốn người cha chia gia tài cho mình. Đó là quyền thừa kế của anh ta.

Thật phũ phàng khi người cha vẫn còn đó mà đứa con đã vội đòi chia gia tài. Hành vi đòi chia gia tài khác nào phủ nhận sự tồn tại của người cha trên đời, phủ nhận quyền người cha trên khối gia sản và trên bản thân anh ta là một người con. Hành vi ấy khác gì việc anh ta muốn người cha chết, hay coi người cha như đã chết rồi! Thật không thể tin nỗi khi có một người con như thế. Người con thứ trong trường hợp này cho thấy anh ta đã rơi vào tình trạng hư đốn và bất trị biết dường nào!

Cũng theo Đệ Nhị Luật 21,18-21, một gia đình trong cộng đồng có một người con ngỗ nghịch, bất trị thì cha mẹ có quyền bắt lấy đem đến cho toàn thể cộng đồng ném đá cho đến chết. Tuy nhiên, người cha trong trường hợp này không làm như thế, sau khi người con thứ xin chia phần gia sản thì dường như ngay lập tức người cha đã chia phần gia tài cho anh ta. Hành động đó cho thấy người cha tôn trọng quyết định của con, chiều theo ý muốn tự do của anh ta. Chắc hẳn người cha đã phải ngậm đắng nuốt cay và đau lòng lắm khi nghe những lời đó thốt ra từ miệng người con đòi chia gia sản trong khi ông vẫn còn sống.

Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Hành động trẩy đi phương xa cho thấy anh ta muốn đi thật xa, muốn thoát khỏi sự quản lý của người cha, muốn tự đứng trên đôi chân của mình, không cần đến người cha. Vì bấy lâu nay anh sống trong sự chiều chuộng che chở của cha mình. Giờ đây anh ta nghĩ mình nên đi xa khỏi cha mình để hưởng sự tự do, để tự liệu lý đời mình. Chính hành vi đó cũng cho thấy rằng, những tháng ngày trước đây, chắc hẳn anh ta nghĩ mình đã sống trong sự bức bí. Anh ta sống sung sướng ở nhà cha mình mà không thấy thoải mái. Và điều đó càng chứng tỏ rằng, anh ta cũng không hiểu khi xa người cha, xa gia đình thì đời mình sẽ như thế nào. Anh chỉ biết một điều trước mắt là đi đến vùng khác cho khuất mắt người cha trước đã. Và anh ta đã sống phóng túng, phung phí của cải mình được thừa kế một cách vô độ.

Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta đã bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Theo sách Đệ Nhị Luật 14,8, đối với người Do-thái, heo là loài vật có móng chẻ hai và không phải là loài nhai lại nên được xếp vào loài vật ô uế, không được ăn thịt chúng và xác chết của chúng cũng không được đụng tới. Thế mà anh ta lại ước được có đậu muồng là thức ăn của loài vật ô uế mà nhét cho đầy bụng. Nhét cho đầy bụng đó không phải là cách ăn của một con người bình thường nữa. Một con vật trong điều kiện bình thường cũng không có kiểu ăn như thế. Kiểu muốn ăn như thế diễn tả nhân phẩm anh ta đã hoàn toàn mất hết, nên nhét đậu muồng heo cho đầy bụng để tồn tại mà thôi. Trớ trêu thay, đậu muồng heo cũng chẳng ai cho anh ta. Thật là một thảm cảnh!

Từ một người sống trong sự sung sướng, kẻ hầu người hạ ở nhà cha mình, giờ đây anh ta đang rớt xuống đến tận cùng của đáy xã hội. Rõ ràng, “cách diễn tả của dụ ngôn bày tỏ sự sâu sắc của bi kịch tội lỗi. Muốn tự liệu lý cuộc đời của mình là không còn sống nữa, là đánh mất ý nghĩa, vẻ đẹp, sức mạnh và bản chất của cuộc đời mình.”[4]

Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ Lâm vào cảnh khốn cùng, anh mới thấm thía thế nào là sự xa lìa nhà cha, mới thấm thía thế nào là cuộc đời bầm dập trong cảnh sống tự do buông thả. Thật may cho anh, vì trong lòng anh ta vẫn có có chút hồi tâm, anh nhớ lại những ngày tháng tươi đẹp sống bên cạnh cha với kẻ hầu người hạ. Bản tính muốn được tự do của anh ta không đi quá đà đến nỗi cố chấp, mặc kệ dòng đời đưa đẩy. Vì trong lòng anh vẫn còn nhớ đến hình bóng yêu thương của người cha.

Và diễn biến nội tâm được Lu-ca thuật lại thật cảm động nhưng cũng đầy xót xa cho đứa con hoang đàng muốn sám hối lỗi lầm. Anh ta tự nhủ thầm trong lòng rằng, mình phải trở về. Vì biết bao nhiêu người làm công cho cha anh được cơm dư gạo thừa còn anh thì đang trong tình cảnh kiệt sức vì đói. Từ perisseuein (cơm dự gạo thừa ) cũng được sử dụng trong Lu-ca 9,17 và 12,15 để chỉ sự no nê sung túc.

Biết như thế, anh hồi tâm tự nhủ mình phải đứng lên, đi về cùng cha và thưa cùng người, thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha. Giới từ Hy-lạp eis được nói trong câu trên có nghĩa là chống lại,(ở đây dịch là đắc tội). Trời trong trường hợp này được người con nhắc đến cũng giống như trong Lu-ca 15,7; 6,23;12,33 là đều ám chỉ đến Thiên Chúa. Như thế, anh ta ý thức được tội mình đã phạm là chống lại Thiên Chúa cũng như con người. Mối liên quan giữa Thiên Chúa và con người trong trường hợp này thật bền chặt. Hành vi phạm tội của anh ta đối với người cha có liên quan đến Thiên Chúa và ngược lại. Tuy nhiên người con thứ không chỉ rõ bản chất tội lỗi của anh ta. Tội lỗi đó sau này được người anh nói lên trong giận dữ là nuốt hết của cải của cha với bọn điếm.

Và anh ta biết, phạm tội như thế là cắt đứt mối giao hảo giữa anh với cha mình và giữa anh với Thiên Chúa. Anh ta biết mình chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Và trong lòng anh thầm nghĩ chỉ xin cha coi mình như một kẻ làm công mà thôi. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Việc người con thứ đang ở đằng xa mà người cha trông thấy cho chúng ta nhìn nhận rằng, từ khi người con này bỏ nhà ra đi, người cha vẫn ngày đêm mong ngóng, tựa cửa đợi chờ. Nỗi nhớ nhung và hình ảnh của người con đi hoang luôn nằm trong tâm trí ông. Vậy nên, khi hình bóng người con đang lờ mờ từ đằng xa thì người cha đã nhận thấy. Tình thương trong ông bỗng trỗi dậy cao trào hơn lúc nào hết. Ông đã chạnh lòng thương (splagkhnizômai). Chạnh lòng thương cũng là thuật ngữ được Lu-ca dùng khi nói về tình thương của Đức Giê-su đối với bà góa thành Na-in (xc. Lc 7,13) và trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (xc. Lc10,33). Tình thương đó đã khiến người cha hạ mình xuống, không cần phải chờ đến việc người con phải về trình diện trước cha cầu xin sự tha thứ đã. Tình thương trong người cha lúc này chiếm luôn chỗ của tôn ti, trật tự, của lễ nghĩa gia phong.

Theo phong tục của người phương đông, người cha trong gia đình như ông chủ, tất cả thành viên phải phục tùng người cha. Việc người con thứ nhận ra lỗi lầm và về xin lỗi trước mặt cha mình để cầu xin sự tha thứ là chuyện đương nhiên. Ấy thế mà, người cha trong trường hợp này vì quá thương nhớ người con thứ nên chạy ra ôm chầm lấy đứa con hoang đàng trở về mà hôn lấy hôn để. Hành động ôm cổ hôn cho chúng ta liên tưởng đến tình thương của Giu-se đối với Ben-gia-min (xc. St 45,14-15), và sự tha thứ của Đa-vít đối với con mình là Áp-sa-lôm (xc. 2 Sm 14,33) trong Cựu ước.

Quả thật, khi người con thứ chưa kịp dứt lời bộc bạch nỗi niềm thống hối với người cha thì người cha liền ngắt lời. Đối với ông lúc này, sự hiện diện của người con trước mặt mình là quan trọng hơn cả. Sự hiện diện đó chứng tỏ mình vẫn nhìn thấy người con để vơi đi nỗi nhớ nhung bấy lâu nay, để ông có thể tiếp tục yêu thương. Và quan trọng hơn, hiện diện trước mặt cha lúc này chứng tỏ người con thứ còn sống. Cũng như đời sống thực sự là được hiện diện trước mặt Thiên Chúa vậy.

Người cha lúc này quá đỗi vui mừng, liền sai gia nhân ­mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xõ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. Trong xã hội Trung đông thời bấy giờ, việc trao tặng người nào chiếc áo đẹp là nói lên lòng trân quý đặc biệt đối với người đó. Thời đó, chưa có việc trao tặng bằng huân huy chương, do đó, muốn khen thưởng một quan chức có công, nhà vua thường trao tặng cho người đó một bộ y phục quý giá. Nên trong trường hợp này, người cha trao y phục đẹp nhất cho con với ý chỉ người cha đối xử với con mình trở về như một thượng khách vậy. Trong Cựu ước, trao nhẫn cho ai là dấu chỉ giao cho người đó toàn quyền (xc. St 41,42; Et 3,10; 8,2; 1 Mcb 6,5), trao cho người đó một chức vị. Cụ thể, trong sách 1 Mcb 6,15 vua An-ti-ô-khô IV trao cho ông Phi-lip-phê ấn tín để ông này giáo dục con mình là vua An-ti-ô-khô V. Thời bấy giờ, giày cũng là một vật dụng chỉ những người tự do mới được mang. Nên từ nay, người con thứ được hồi phục lại địa vị của mình, anh ta giờ trở lại là một người tự do, một cậu chủ như ngày nào[5].

Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Người cha tưng bừng mở tiệc thiết đãi mọi người bằng con bê đã vỗ béo (tôn siteutôn). Điều này nói lên tầm quan trọng của người con trở về và làm nỗi bật lòng thương yêu tha thứ của người cha đối với người con tội lỗi này. Chắc hẵn, con bê béo đó cũng được ông chủ nuôi sẵn trong sự hy vọng một ngày nào đó con ông sẽ trở về. Và niềm hy vọng đó đã trở thành hiện thực, cậu con thứ đã trở về trong niềm vui sướng của người cha. Rõ ràng, trong hân hoan người cha thốt lên rằng, vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Sống trong tình cảnh sa đọa, bỏ nhà ra đi, phung phí tiền bạc, và chịu cảnh đói khát, người con thứ đã cảm nghiệm được thế nào là sống mà không bằng chết. Càng sâu xa hơn nữa, anh ta nhớ về thời anh ở nhà cha với điều kiện sung túc của một cậu chủ. Người cha vốn tính yêu thương, đã cảm nghiệm được nỗi đắng cay của cuộc đời lên người con khi anh ta bỏ nhà ra đi. Nỗi khổ của người con cũng chính là nỗi khổ của người cha. Chính vì thế mà trước đó ông đã tựa cửa đợi chờ con mình trở về qua hành động từ xa đã trông thấy anh ta. Quả thật, người cha đã hiểu được người con đang trong tình cảnh chết đi sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.

Cậu con cả từ ngoài đồng trở về gần đến nhà thì nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa liền gọi một người đầy tớ đến để hỏi xem việc gì đang xảy ra trong gia đình anh. Cậu con cả liền được tin ‘em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khỏe.’ Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Hình ảnh người con cả xuất hiện trong khung cảnh này thật đối nghịch lại với người cha. Người cha thương nhớ, vui mừng vì em mình bao nhiêu thì người anh lại có thái độ tức giận bấy nhiêu. Phải chăng, người anh đang ghen tuông với người em? Phải chăng người anh giận cha mình? Phải chăng, người anh không còn coi người con thứ là em trai mình nữa? Phải chăng, người anh sợ người em về lại lấy hết của cải nơi người cha của mình?… Cho dù là thế nào đi nữa, thì chúng ta biết rằng, người anh đã được chia của cải rồi. Người anh đã có quyền sở hữu hai phần tài sản trước đó rồi.

Như thế, đối xử với người em thế nào trong lúc này là quyền của người cha chứ không phải là quyền của người anh cả. Người anh cả lẽ ra nên vui mừng cùng với cha mình vì người em đã trở về thì đúng hơn. Qua hành vi tức giận, chúng ta thấy người anh không thương em mình đã đành, anh ta còn không thương cha mình nữa. Nếu thương cha mình, hiểu cho hoàn cảnh đau lòng của người cha khi phải từng ngày từng giờ trông mong em mình trở về bấy lâu nay, thì người con cả ắt sẽ đối xử với cha cách khác. Vì thương cha mà bỏ qua cho người em. Đằng này, anh không chịu vào nhà, anh lại để cha mình ra năn nỉ vào nhà, đang khi nhà đó vốn là nhà của anh ta bấy lâu nay.

Anh ta lại còn trách móc cha mình: “cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” Đến đây, ta mới thấy bộ mặt thật của người con dần lộ ra là một kẻ ích kỷ, anh ta không có tình thương dành cho em mình. Anh ta thẳng thừng nói với cha, thằng con của cha đó. Nghĩa là, người con thứ không liên quan gì tới anh ta cả. Anh coi em mình như đã chết từ khi nó bỏ nhà ra đi rồi. Anh cũng lộ ra là người sống trong nhà cha nhưng không có lòng mến yêu cha, không tin tưởng vào cha. Nói đúng hơn, anh ta không ý thức được thân phận cậu chủ – người thừa kế đối với gia tài của cha. Anh ta tự coi mình như là những người nô bộc, người làm công cho cha. Anh ta hầu hạ cha bằng lao công vất vả chứ anh ta không coi việc lao động trong gia đình mình là bổn phận và trách nhiệm của anh sau này là kế thừa gia sản đó. Động từ douleuô (hầu hạ) trong tiếng Hy-lạp còn có nghĩa là làm nô lệ. Như thế, anh ta tự coi mình như kẻ làm nô lệ cho cha vậy, thậm chí qua hành động gọi người đầy tớ ra và hỏi chuyện, anh ta còn hạ phẩm giá mình xuống thấp hơn cả những người làm công cho cha mình nữa.

Lời nói của cậu con cả đã bộc lộ ra anh ta là một người thật sự bất xứng với tình thương và sự tín nhiệm của người cha. Bấy lâu nay sống với cha mà anh không hiểu được tình thương của người cha. Anh mới thực là một người phụ bạc khi thốt lên những câu nói đó. Hẳn khi nghe những lời như thế, người cha đau lòng lắm. Người cha cứ ngỡ người con cả luôn trung tín với mình mà nay lại nói những lời như xát muối vào lòng mình vậy!

Thế nhưng, người cha không trách móc người anh cả. Bằng tình thương và thái độ ôn tồn, người cha nói với anh ta, ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì là của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.’

Lúc nào người anh cả cũng ở với cha, nhưng dường như anh chỉ hiện diện theo nghĩa thể lý. Anh chỉ muốn chu toàn luật lệ trong nhà thật tốt nhưng lòng trí anh không hướng về cha, không lo chung cùng sự nghiệp với cha. Thế nhưng, người cha nhấn mạnh mối liên hệ thâm sâu giữa mình với anh ta, lúc nào con cũng ở với cha, vì người cha tin tưởng vào anh ta, và quyền thừa kế cũng là của anh ta. Vậy chính cậu con cả đã tự đánh mất giá trị của mình qua hành động trách móc cha mình. Qua sự việc đó, người cha và thậm chí kể cả người làm công, cũng sẽ đánh giá lại vai trò thừa kế của anh ta đối với gia tài của người cha để lại. Vì người làm công luôn biết chủ của mình quản lý mọi việc bằng tình thương, trong khi cậu con cả lại không được như thế để xứng đáng kế thừa gia sản đó.

  1. Bài học thực hành

Dụ ngôn người cha nhân hậu để lại cho chúng ta nhiều bài học có giá trị sâu sắc. Mỗi một nhân vật trong dụ ngôn chúng ta đều học được những nét đặc trưng liên quan đến lòng thương xót.

Hình ảnh người cha trong dụ ngôn gợi lên trong ta một vị Thiên Chúa giàu lòng xót thương với con cái loài người. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Người dựng nên con người, ban cho con người những điều kiện sống hạnh phúc. Thế nhưng, Người vẫn để con người tự liệu lấy cuộc đời của mình. Con người xa lìa Thiên Chúa để đi tìm hạnh phúc riêng của mình, và hậu quả mà con người gặp phải là sự nô lệ, sống trong tình cảnh mất phẩm giá. Sự cay đắng ê chề mà người con thứ trải qua cho ta học được điều đó. Thiên Chúa là cha nhân lành không bỏ rơi con người, Người vẫn trông chờ con người quay trở lại sám hối lỗi lầm để được tha thứ. Thiên Chúa ngày đêm mong chờ con người về với Người. Tình thương của Thiên Chúa không cho phép Người ruồng rẫy con người mãi mãi được.

Tuy nhiên, để được trở về và giao hòa với Thiên Chúa, con người cần có những bước tỏ lòng thống hối đích thực. Thứ nhất, con người cần thấy mình sống xa cách Thiên Chúa, cảm thấy mình thật tội lỗi và cần được sống tốt lành hơn. Thứ hai, con người phải nhớ về những ngày tháng hạnh phúc lúc chưa phạm tội. Thứ ba, con người cần nhận thức được một sự lưu đày nội tâm đang dằn vặt bản thân mình. Thứ tư, con người cần hướng về tương lai, nghĩ đến Thiên Chúa tình thương đang chờ mình. Thứ năm, con người cần dứt bỏ quá khứ, đứng lên làm lại cuộc đời bằng cách trở về với Thiên Chúa và xưng thú lỗi lầm của mình. Đó là hành trình thống hối và xin ơn tha thứ của tội nhân đối với Thiên Chúa.

Hình ảnh người cha còn gợi lên trong ta một Thiên Chúa của niềm hy vọng. Người vẫn tin tưởng nơi sự trở về của con người. Vì yêu thương, Thiên Chúa sẵn sàng chờ đợi con người quay về với Người bất cứ lúc nào. Cho dù con người có bất trung đến mức nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín, Người luôn hy vọng con người trở về cùng Người. Hình ảnh người cha đón người con sám hối trở về còn cho ta thấy một vị Thiên Chúa vui mừng khi thấy con người trở lại cùng Người. Người vui vì con người được phục hồi phẩm giá làm người, con người đã ­đã chết ­mà nay lại sống. Tiệc mừng Thiên Chúa thiết đãi người thống hối là bữa tiệc hạnh phúc trên Nước Trời. Hạnh phúc đó luôn mở cửa cho những người có lòng ăn năn trở về cùng Người.

Thiên Chúa là Đấng quảng đại, không ích kỷ hẹp hòi. Người yêu thương con người không theo lối yêu thương của con người dành cho nhau. Con người đòi công bằng có đi có lại, công bằng theo kiểu giao hoán. Thiên Chúa biết rõ từng người Người dựng nên, do đó Người biết các nhu cầu của mỗi người trong chúng ta. Người phân phối cho chúng ta theo nhu cầu của mình. Hành vi đòi công bằng nhưng thật ra đầy ích kỷ của người anh cả đi ngược lại hoàn toàn với lòng yêu thương và sự công bằng của Thiên Chúa.

Tình thương yêu của Thiên Chúa là vô điều kiện. Cả hai người con hành động như thể tình thương của người cha phải có một điều kiện nào đó. Họ cứ nghĩ, họ cần làm gì đó để duy trì hay phục hồi mối quan hệ tốt đẹp với người cha. Dụ ngôn cho ta thấy, người cha yêu thương cả hai người con chỉ vì họ là con chứ không quan tâm đến việc họ làm gì. Điều đó cũng ám chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thiên Chúa không yêu chúng ta theo kiểu Người đặt điều kiện cho chúng ta làm một việc gì đó trước cho Người để được Người yêu thương lại. Ngược lại, dụ ngôn cho chúng ta thấy lòng quảng đại và bao dung của Thiên Chúa đã không tước mất hay làm hao mòn điều gì nơi con người khi con người thống hối trở về[6].

III.  Biến cố thương khó và Phục sinh: đỉnh cao của lòng thương xót

  1. Bữa Tiệc Vượt Qua và việc thiết lập Bí tích Thánh Thể (Lc 22,14-20)

Trong trình thuật này, Lu-ca cung cấp cho chúng ta nhiều yếu tố mới so với cách trình thuật về biến cố này của các thánh sử khác.

Điểm khác thứ nhất mà ta thấy đó là việc Đức Giê-su nói các tông đồ,“Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình.” Từ “pathêin” mang nghĩa “chịu đau khổ, chịu cực hình” nói chung. Chúng ta cũng bắt gặp hạn từ này trong Mt 16,21; 17,12; Mc 9,12; Lc 17,25. Tuy nhiên các trường hợp trên đều dùng với ý chỉ chịu đau khổ nói chung của kiếp người.

Trong bối cảnh của lễ Vượt Qua, thánh Lu-ca dùng từ “pathêin” để ám chỉ đến khổ hình mà Đức Giê-su phải chịu chính là cái chết ngay sau bữa tiệc Vượt Qua này. Thánh sử Lu-ca cũng dùng thuật ngữ này để ám chỉ cái chết của Đức Giê-su trong Lc 24,26.46; Cv 1,3; 3,18; 17,3.

Điểm thứ hai mà ta thấy là việc liền sau đó Đức Giê-su nói, “bởi vì Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.” Việc Đức Giê-su nói mình sẽ không bao giờ mừng lễ Vượt Qua như thế này nữa cũng ám chỉ Người biết mình chịu khổ hình theo kiểu nào rồi. Người biết mình sắp trải qua cái chết sau lễ Vượt Qua này. Hình ảnh này cũng gợi cho ta nghĩ đến lễ Vượt Qua thời Cựu Ước sắp được hoàn tất trong Nước Thiên Chúa. Như thế, bữa tiệc Vượt Qua này cũng là hình ảnh tiên trưng cho bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa đó là việc Đức Giê-su sẽ phải trải qua cái chết để cứu độ muôn dân. Nước Thiên Chúa là cách nói của người Do-thái và của các sách Tin mừng, để mô tả và phác họa ơn cứu độ như một nơi hạnh phúc và bình an, với sự hiện diện của Thiên Chúa.[7]

Điểm thứ ba ta thấy ở đây là cái chết của Đức Giê-su sinh ơn cứu độ cho muôn người. Trình thuật lời tạ ơn trong các câu 19-29 cho chúng ta biết điều đó. Trình thuật này cũng được Lu-ca thuật lại giống với 1Cr 11,23-25. Ý thức được cái chết mình sắp phải trải qua để về cùng Thiên Chúa Cha, trong bữa tiệc Vượt Qua này, với tư cách là chủ tọa bữa tiệc, Đức Giê-su đã thiết lập Bí tích Thánh Thể để ở lại cùng nhân loại. Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói, “đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” Cái chết của Đức Giê-su là nguyên nhân cứu độ trực tiếp cho dân của Người. Chúng ta thấy trong  Mt 26,28 và Mc 14,24 là máu Người đổ ra vì muôn người, nhưng ở đây Lu-ca nhấn mạnh hơn ý nghĩa hiến tế của Đức Giê-su, thánh nhân viết vì anh em, Lu-ca sử dụng lối nói này rất gần với 1 Cr 11,24.

Trong nhãn quan của Lu-ca, Đức Giê-su nói cho các tông đồ là những người trực tiếp tham dự bữa tiệc ly hôm đó. Nhờ thế, các ông sẽ thấy được vai trò của mình trong vấn đề lưu giữ những kỷ niệm đó với thầy mình cho đến muôn đời. Điều này đã được chứng minh cụ thể sau lễ Vượt Qua, các ông luôn quy tụ bên nhau, đoàn kết với nhau để cùng nhớ về những kỷ niệm với thầy mình. Thánh Mát-thêu và Mac-cô không ghi lại câu tưởng nhớ đến Thầy này, Ở đây Lu-ca ghi lại với hàm ý, Đức Giê-su muốn nhắn nhủ các tông đồ rằng, tiệc Thánh Thể mà Người cử hành lúc này phải được lặp lại như là biến cố vĩ đại vì tình thương mà Đức Giê-su đã thực hiện cho dân của Người. Cũng giống như dân Ít-ra-en cử hành lễ Vượt Qua vào tháng bốn hằng năm để tưởng nhớ biến cố Thiên Chúa cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập (xc. Xh 12,14; 13,9; Đnl 16,13) vậy.

Cuối bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy chén rượu thứ ba, gọi là chén chúc tụng, và nói, chén này là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” Chỉ có Lu-ca và 1 Cr 11,25 ghi lại chữ mới (kaine), nhắc đến hành vi trao ban mạng sống của người tôi trung đau khổ được mô tả trong chương 53 của sách ngôn sứ I-sai-a. Hành vi thực hiện Giao Ước Mới này cũng đã được Gr 31,31-34 tiên báo: Thiên Chúa sẽ lập với dân Ít-ra-en một giao ước mới, không giống như giao ước mà Thiên Chúa đã lập với họ sau biến cố xuất Ai-cập, bởi lòng chai dạ đá đã khiến dân chúng bất trung bội nghĩa cùng Thiên Chúa.

Giao ước mới này sẽ được Thiên Chúa ghi khắc vào tâm khảm dân Ít-ra-en chính là Lề Luật của Thiên Chúa. Cuộc hiến tế của Đức Giê-su bằng máu của Người khai mở kỷ nguyên cứu độ mới. Máu Đức Giê-su đổ ra lần này không giống như máu chiên bò được sát tế trong lễ kỳ an mà Mô-sê thực hiện năm xưa để rảy trên dân như được ghi lại trong Xh 24,8. Nhưng máu này chính là mạng sống của Đức Giê-su, Người hoàn toàn tự do đổ máu mình ra để cứu chuộc cho nhân loại. Người ý thức được việc Người sẽ chịu chết thế nào nên mới nói, máu đổ ra vì anh em.

Chúng ta cũng cần lưu ý thêm rằng, xen giữa lời tạ ơn trên bánh không men và trên rượu là bữa ăn chính thức của người Do-thái gồm có chiên vượt qua, bánh không men, rau đắng và trái cây. Tuy nhiên Lu-ca không thuật lại việc này, điều đó cho ta thấy Lu-ca chỉ muốn nhấn mạnh đến những yếu tố quan trọng liên quan đến việc thiết lập Bí tích Thánh Thể của Đức Giê-su mà thôi. Từ nay, tiệc Thánh Thể này thay thế cho lễ Vượt Qua cũ. Thánh Thể này có giá trị cứu độ cho muôn đời thuộc muôn thế hệ.

  1. Sự kiện người gian phi sám hối (Lc 23,39-43)

Trình thuật thương khó về Đức Giê-su là một trong những trang Tin mừng ảm đạm nhất mà cả bốn thánh sử ghi lại. Hành trình đi đến cuộc khổ nạn được chính Đức Giê-su chuẩn bị bằng bữa tiệc Vượt Qua. Trong đó vì tình yêu, Người đã lập Bí tích Thánh Thể để ở lại cùng con người luôn mãi. Dự liệu đó đã khiến Người phải hy sinh mạng sống của mình trên thập giá. Nếu chúng ta đọc những biến cố: lúc Đức Giê-su cầu nguyện trong vườn cây dầu; Đức Giê-su bị bắt, bị Phê-rô phản bội, bị ngược đãi và bị đánh đập trước Thượng Hội Đồng,… cho đến trên đường ra núi Sọ, ta mới thấy được thảm cảnh của một con người vô tội chết thay cho muôn người là như thế nào.

Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ đề cập chi tiết đến một trong những lời nói đầy lòng thương xót của Đức Giê-su trong tình trạng Người đau khổ tột cùng trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Trong lúc đau khổ như thế, Người không nghĩ về bản thân mà nghĩ cho phần rỗi của người khác. Bản chất lòng thương xót của Người được thể hiện ngay cả lúc chính Người cần được thương xót nhất.

Trong lúc chịu treo trên thập giá, một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Người nhục mạ rằng, “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi và cứu cả chúng tôi với !” Thật là chua xót khi Đấng vô tội lại bị liệt vào hàng phạm pháp, bị coi là đồng lõa với những tên trộm cướp. Hơn nữa, Đức Giê-su lại bị chính những tên trộm cướp sĩ nhục mình. Nhưng chúng ta cũng không nên trách tên trộm mắng chửi Đức Giê-su làm gì khi mà cả xã hội thời bấy giờ vô tri trước sự xuất hiện của Con Thiên Chúa. Hành vi này chính thánh Phê-rô sau này khi rao giảng làm chứng cho sự Phục sinh của Thầy mình cũng nói với dân Do-thái rằng, “thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,17-19). Như vậy, ta mới hiểu được cuộc khổ nạn Đức Giê-su chịu cô đơn biết nhường nào. Người bị dân hành động thiếu hiểu biết, chịu treo trên thập giá, bị tên gian phi phỉ báng.

May mắn thay, tên trộm còn lại biết Đức Giê-su là ai liền mắng kẻ đã sỉ nhục Người rằng, “mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !” Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”!

Tên tội phạm thứ hai đã nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a đích thực, không như Mê-si-a theo kiểu truyền thống. Anh ta hy vọng vào lòng thương xót của Đức Giê-su, cử chỉ trách móc tên trộm thứ nhất và nhận biết Đức Giê-su là Đấng vô tội cho ta biết điều đó. Rồi anh ta xin được vào Nước của Người sau cái chết nhục nhã mà anh cùng chịu với Đức Giê-su. Như thế, anh biết rằng anh sẽ phải chết, anh không xin Đức Giê-su cứu sống mạng của anh mà cứu lấy linh hồn của anh. Vì anh biết Người là Đấng cứu độ đích thực. Người phải trải qua khổ hình thập giá mới đến được vinh quang Nước Trời. Vì Lu-ca nhấn mạnh đến vinh quang của Đức Giê-su, ơn cứu độ của Người mang lại phải qua con đường khổ giá. Thiên Đàng ở đây liên hệ đến hình ảnh cánh chung của việc tạo thành mới. Lời hứa Thiên Đàng cho tên trộm lành theo cách hiểu của Lu-ca là ơn cứu độ ngay tức thì[8]. Và như ta thấy, Đức Giê-su liền đáp lại anh ta với giọng trang trọng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Đối với người Do-thái thời đó, Thiên Đàng là nơi dành cho người công chính chờ ngày sống lại[9] nên việc tên trộm được Đức Giê-su hứa ban Nước Thiên Đàng chứng tỏ anh đã được sạch tội, đã trở nên công chính rồi. Cho dù tội lỗi anh ta cỡ nào không biết, nhưng hành vi sám hối và tuyên xưng đức tin đó đã xóa sạch tội lỗi của anh ta. Như Đức Giê-su đã nói ở Lc 12,8: “Phàm ai xưng Ta ra trước mặt người đời, thì Con Người cũng xưng kẻ ấy ra trước mặt thiên thần của Thiên Chúa”.

Chúng ta lại thấy, trước bao lời phỉ báng Đức Giê-su chẳng hé một lời đáp trả, thế nhưng hành vi ăn năn cầu khẩn cùng Đức Giê-su của tên trộm đã khiến Đức Giê-su phản ứng một cách trang trọng và gần như là tức thì. Điều đó cho thấy sự chờ đợi con người sám hối của Người luôn thường trực trong tâm trí Người. Người dường như chờ con người sám hối để ban phát sự tha thứ. Sự tha thứ của Thiên Chúa luôn mở ngõ cho những ai có lòng thống hối thật sự và cần đến ơn cứu độ do Đức Giê-su mang lại. Tin mừng Lu-ca là Tin mừng của lòng thương xót nên lời hứa hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng chỉ có ở Lu-ca mà thôi. Cũng như trong Lc 7,36-50; 19,1-10; Cv 9,1-25,… ở đoạn Tin mừng chúng ta vừa phân tích, Lu-ca chú trọng đến việc sám hối và cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa.

  1. Đức Giê-su trút hơi thở cuối cùng (Lc 23,44-46)

Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu tức là gần mười hai giờ trưa, lại đang trong dịp lễ Vượt Qua, nghĩa là đang dịp trăng rằm. Thế nên không thể có chuyện giải thích là nhật thực xảy ra trùng hợp vào giờ này được. Thế mà, bóng tối bao phủ (skôtizo) khắp vùng đó. Như vậy ta có thể coi việc này là một phép lạ xảy đến trong giờ lâm chung của Đức Giê-su. Cũng có thể hiểu lúc đó sự dữ hoành hành khắp mặt đất trong khi Đức Giê-su sắp trút hơi thở cuối cùng. Tuy nhiên, sự kiện bóng tối bao phủ cũng làm cho ta liên tưởng đến các biến cố trong Is 13,10; Gv 12,2; Mc 13,24. Qua những biến cố này, Kinh Thánh tiên báo một cuộc giáng họa xảy đến cho muôn người muôn nhà. Cho dù thế nào đi nữa, thì hình tượng bóng đêm bao trùm u ám cho ta thấy sự dữ đang hoành hành và con Thiên Chúa phải chịu đau đớn nhất vào những giây phút cuối đời. Trong cô đơn sầu khổ, Người chỉ còn biết hướng lòng lên Chúa Cha và phó thác mọi sự vào tay Người mà thôi! Ý thức được cái chết của mình có giá trị cứu độ nhân loại, nên khi Người bị đánh đập, bị phỉ nhổ,… và trong giờ sinh thì đau đớn trên thập giá vẫn một lòng cam chịu, không một lời kêu than.

Màn trong nhà thờ xé ra làm đôi là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Chúa Cha hoàn toàn được mở ra. Vì thế Đức Giê-su đã thực hiện cuộc vượt qua của Người, trao thần khí của Người về với Chúa Cha bằng lời nói và hơi thở cuối cùng. Sau đó, Người chết trong bình an và trong chương trình của Chúa Cha, trong lời cầu nguyện và hiệp thông với Chúa Cha như là sự thành toàn cuộc đời của Người. Đây không phải là một lối miêu tả mang tính văn chương về một người sắp chết trên thập giá. Trình thuật biến cố này cho chúng ta một ý nghĩa sâu xa hơn đó là: Cái chết của Người, trong khi do con người gây nên thì cũng là cái cớ cho một hành vi đầy tự do mang tính thần linh của Người. Và điều đó thực sự có ý nghĩa cho cái chết của Người. Cái chết này còn cao cả hơn sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa trong biến cố Xuất hành thời Cựu Ước. Sự kiện bức màn bị xé ra làm đôi cũng có thể giải thích theo nghĩa với cái chết của Đức Giê-su, Người đã mở đường cho chúng ta tiến sâu vào Nơi Cực Thánh trong đền thờ, nơi mà từ xa xưa vốn bị bức màn này ngăn cách giữa Nơi Cực Thánh và Nơi Thánh. Vậy nên, ta có thể hiểu bức màn cũng muốn nói đến thân xác của Người (Xc. Dt 10,19-20).

Mở đầu cho sứ vụ của Đức Giê-su tại Na-za-rét trước đây, Đức Giê-su đã bị chính dân của Người ruồng bỏ. Đám đông đã tìm giết Người bằng cách đưa Người lên núi để ném xuống. Trong trường hợp đó Người đã băng qua giữa họ mà đi (xc. Lc 4,28-30). Giờ đây, mặc dù thực sự Người bị buộc tội phải chết trong sự ruồng bỏ của dân chúng ở một phạm vi rộng hơn nhiều, Người đã “vượt qua” cái chết để sống và được đưa vào trong vinh quang ngự bên hữu Chúa Cha[10].

Trong trình thuật của Lu-ca, Đức Giê-su một đời luôn hướng về Thiên Chúa là Cha của Người. Từ lúc khởi đầu sứ vụ, Người cũng ý thức được Người đến là để thi hành ý của Chúa Cha (xc. Lc 2,49). Đến khi sứ vụ cứu độ nhân loại của Người sắp hoàn thành, Người vẫn một lòng hướng về Chúa Cha, trao phó mọi sự của Người cho Chúa Cha, đặc biệt là Người trao phó linh hồn Người cho Chúa Cha (xc. Lc 23,46). Tâm tình quy hướng về Cha suốt cuộc đời đó nay sắp được viên mãn trên thập giá qua cái chết đầy thương tâm nhưng cũng đầy tự do, chan chứa tình yêu, sự cao thượng của Người. Người tín thác tuyệt đối vào Chúa Cha. Người tin chắc chắn Chúa Cha sẽ đến cùng Người trong giờ lâm chung. Ở đây ta bắt gặp tâm tình của người gặp gian truân thử thách cầu cứu lên Thiên Chúa và được Người yêu thương đón nhận trong Thánh Vịnh 31,6. Chúa Cha đón nhận Đức Giê-su như của lễ dâng lên đền tội thay cho toàn nhân loại (xc. Ga 11,45-46). Bởi vậy, cái chết của Đức Giê-su mang lại cho nhân loại niềm tin và hy vọng. Vì hơn ai hết, Đức Giê-su hiểu rất rõ rằng, phải qua thập giá mới vào được vinh quang.

Thập giá là con đường để Người về cùng Chúa Cha và đưa mọi người lên cùng Người qua con đường đó. Trong khi Mát-thêu và Mac-cô xem cái chết của Ðức Giê-su như là thời điểm đem ơn cứu độ đến cho nhân loại (xc. Mt 20,28; Mc 10,45) thì Lu-ca xem cái chết của Ðức Giê-su như là đoạn đường cần phải ngang qua để bước vào vinh quang. Rõ ràng trong Lc 24,26 ta thấy Đức Giê-su nói với hai môn đệ đi làng Em-mau, “Nào Đấng Ki-tô lại không phải chịu khổ nạn như thế, rồi mới vào vinh quang của Người sao?”. Như vậy, đối với Lu-ca việc Đức Giê-su Phục sinh và lên trời là đỉnh cao cho sứ vụ cứu thế của Người.

  1. Đức Giê-su Phục sinh thông ban sự sống cho nhân loại

Đức Giê-su Phục sinh đem lại hồng ân sự sống cho con người. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần các bà ra mộ để xức dầu thơm cho thi hài Đức Giê-su thì thiên thần hiện ra và nói, “sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà  hồi còn ở Ga-li-lê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại” (Lc 24,5-7). Hình ảnh Người Sống là danh hiệu khác ám chỉ Thiên Chúa trong Cựu Ước (xc. Gs 3,10; Tl 8,19; 1 Sm 14,39, …).

Sự Phục sinh của Đức Giê-su là một sự chiến thắng tử thần, không phải như sự phục sinh mà chính Đức Giê-su làm cho con trai bà góa thành Na-in hay con gái ông Giai-a (xc. Lc 7,15; 8,54-55). Những người này phục sinh tạm thời rồi lại cũng phải trải qua cái chết. Còn Đức Giê-su Phục sinh và mãi mãi không chết nữa, Người đã đi vào trong chính sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa (xc. Rm 6,9). Người đã chiến thắng tử thần. Do đó, sự Phục sinh của Đức Giê-su mở đường cho nhân loại về cùng Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Khát vọng trường sinh là khát vọng thường trực trong tâm khảm của nhân loại, nay được chính Đức Giê-su dẫn lối đưa đường cho những kẻ tin vào Người. Chính Người cũng đã nói “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6).

Sự Phục sinh của Đức Giê-su có nền tảng từ trong Kinh Thánh và có giá trị cứu chuộc nhân loại. Trong chương 24, Lu-ca nhắc lại buổi học Kinh Thánh giữa Đức Giê-su với hai môn đệ đi làng Em-mau. Rồi cuối đoạn Tin mừng Đức Giê-su lấy dẫn chứng trong Kinh Thánh để giảng về sứ vụ Mê-si-a của Người mà Kinh Thánh Cựu Ước tiên báo. Đọc các sách Tin mừng, chúng ta thấy rõ một điều: sự kiện Đức Giê-su sống lại ban đầu đều bị các môn đệ khước từ, tức là các ông không tin. Điển hình là trường hợp tông đồ Tô-ma, ông thách thức chỉ khi nào được thọc tay vào cạnh sườn Chúa, và xỏ ngón tay vào lỗ đinh của Người thì ông mới tin (xc. Ga 20, 26-27). Và như Tin mừng Lu-ca thuật lại, Đấng Phục Sinh cũng ngạc nhiên về sự cứng lòng của các ông, khiến Người phải thốt lên: “Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!” (Lc 24, 38-39).

Dường như sự hiện diện thể lý vẫn chưa đủ thuyết phục các môn đệ, Đức Giê-su đã phải nhắc lại cho các ông những lời tiên báo về Người trong Kinh Thánh. Người giải thích cho các ông hiểu mối liên hệ giữa Kinh Thánh Cựu Ước và sứ vụ của Đấng Mê-si-a. Người nói đến ba phần chính của Kinh Thánh Cựu Ước: Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh chép về Người (xc. Lc 24,44). Như thế, Đức Giê-su muốn nói rằng, chính Kinh Thánh chép về sự nghiệp của Người trong lịch sử cứu độ[11]. Như Người đã diễn giảng Kinh Thánh với hai môn đệ trên đường Em-mau, Người cũng chỉ cho họ thấy các ngôn sứ đã tiên báo tất cả những biến cố tử nạn và Phục sinh của Người như thế nào. Vậy, việc nhận ra Đấng Phục Sinh phải được dựa trên nền tảng Kinh Thánh kể về mối tương quan giữa các biến cố và kế đồ cứu độ của Thiên Chúa trong Cựu Ước liên quan đến Đức Giê-su.

Thánh Phê-rô cũng đã chứng minh cho đồng bào Ít-ra-en biết rằng, Thiên Chúa đã làm cho Đức Giê-su sống lại chính là Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, đó cũng là Thiên Chúa của Kinh Thánh mà đồng bào tôn thờ (xc. Cv 3,13-15). Cũng theo gương Đức Giê-su, Phê-rô bám vào lời ngôn sứ để chứng minh cho mọi người thấy rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất. Thánh nhân nói : “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình” (Cv 3,17-18). Vậy, Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa được Cựu Ước loan báo sẽ là Đấng Cứu Độ trần gian, Đấng đến hy sinh mạng sống mình để làm giá chuộc cho muôn người được sống.

Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và trao bình an. Đức Giê-su Phục Sinh cũng hiện ra với mười một tông đồ, đứng giữa các ông và nói ­“bình an cho anh em” (Lc 24,36). Bình an là một trong những điều thiện hảo mà Đức Giê-su muốn đem đến cho nhân loại (xc. Lc 2,14; 9,38). Tại sao Đức Giê-su sau Phục sinh mỗi lần đến với các môn đệ của Người cũng đều nói bình an cho anh em. Chúng ta có thể thấy thêm trong Tin mừng Gio-an: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19). “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” (Ga 20,26). Như thế, sự kiện Đức Giê-su bị bắt, chịu tử nạn đã làm cho các ông hoang mang lo sợ. Các ông mất phương hướng để sống, hy vọng vào Đức Giê-su như là Đấng Mê-si-a cứu dân Do-thái giờ đây đối với các ông đã tiêu tan. Trong hoàn cảnh đó, các ông cần bình an hơn lúc nào hết.

Tuy nhiên, bình an mà Đức Giê-su chào chúc có giá trị vĩnh cửu cho những ai tin vào Người, chứ không chỉ là cách trấn an các ông vào thời điểm đó mà thôi. Đấng Phục Sinh đem bình an đến cũng chính là lời khẳng định chiến thắng của Người đối với thế gian, vì bình an của Người ban không như thế gian ban tặng mà là bình an thực sự (xc. Ga 14,27). Bình an thực sự của Đức Giê-su phải đi qua thập giá, chính Đức Giê-su vượt qua khổ nạn này mới có được bình an. Người cũng muốn con người tiến bước vào bình an trong sự thông hiệp với Đức Giê-su. Ở đây không có nghĩa là Thiên Chúa muốn con người phải chịu khổ nạn mới được bình an cho bằng sự thông hiệp vào đời sống của Đức Giê-su. Thông hiệp với Đức Giê-su có nghĩa là sống như Người đã sống để được cùng phục sinh với Người. Như thế, bình an thật mà Người ban cho chúng ta cũng có nghĩa là sự sống đời đời.

Đức Giê-su Phục sinh đưa nhân loại về với quê trời. Sau khi dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, Đức Giê-su giơ tay chúc lành cho các ông. Đồng thời Người cũng được đem lên trời khi đang chúc lành cho các ông. Các ông bái lạy Người. Lòng đầy hoan hỉ, các ông trở lại Giê-ru-sa-lem và hằng chúc tụng Thiên Chúa trong đền thờ (xc. Lc 24,50-53). Như vậy, trong đoạn kết thúc Tin mừng của mình, Lu-ca dùng ngôn ngữ phụng tự với những từ ngữ như giơ tay chúc lành, bái lạy, đền thờ, chúc tụng.

Điều đó cho thấy rằng, Lu-ca đã khởi đầu Tin mừng của mình tại đền thờ bằng sự kiện tế tự của Gia-ca-ri-a (xc. Lc 1,8) thì nay kết thúc cũng tại đền thờ bởi sự kiện chúc tụng Thiên Chúa của các tông đồ (xc. Lc 24,53). Sự kiện thứ nhất ta thấy ông Gia-ca-ri-a bị câm vì thiếu lòng tin vào một Thiên Chúa quyền năng và giàu lòng xót thương, nên ông không thể chúc lành cho dân chúng với tư cách tư tế. Như thế, phụng tự thời Cựu Ước bị đứt quảng và không thể thánh hóa dân Ít-ra-en, và sẽ bị phế bỏ. Sự kiện thứ hai thì ngược lại hoàn toàn. Đức Giê-su bằng quyền năng của mình đã chiến thắng tử thần, chúc lành cho nhóm môn đệ – tượng trưng cho một Ít-ra-en mới đang hình thành. Như thế, phụng tự của Cựu Ước nay nhường chỗ cho phụng tự của Tân Ước. Lòng tin và việc phụng tự của Tân Ước hướng về một Thiên Chúa giàu lòng xót thương.

Do đó, các tông đồ chúc tụng Thiên Chúa qua những hành động Người thực hiện qua Con của Người là Đức Giê-su (xc. Lc 7,16; 13,13; 17,15; 18,43). Đặc biệt, qua cái chết, sự Phục sinh và lên trời của Đức Giê-su, các ông thêm vững tin vào thần tính của Người. Các ông ngày đêm chúc tụng Người, ra đi rao truyền tin mừng Phục sinh đó cho nhân loại. Đó là Tin mừng của sự trung tín và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại. Hành vi ca ngợi quyền năng của Thiên Chúa thể hiện qua con người Đức Giê-su cũng chất chứa trong tâm thức nhân loại một hành vi muốn được nên giống Đức Giê-su, muốn được về hưởng hạnh phúc bên Thiên Chúa giống như Người. Ước muốn đó chỉ được thành toàn khi con người đi theo đường lối của Đức Giê-su. Lời cầu nguyện của Đức Giê-su cũng làm cho nhân loại thêm vững niềm tin vào quê hương vĩnh cửu trên trời với Người: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con” (Ga 17,24).

  1. Đức Maria: Hình ảnh của Lòng Thương Xót trong Tin mừng Luca
  2. Đức Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét (Lc 1,39-45)
  3. Bối cảnh

Đoạn văn này thuật lại cảnh Đức Ma-ri-a đi thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Bài trình thuật này đi liền sau hai bài trình thuật thời thơ ấu: Ông Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su sinh ra và sống ẩn giật. Bài thứ nhất nói đến biến cố truyền tin cho ông Gia-ca-ri-a (xc. Lc 1,5-25) và biến cố truyền tin cho Đức Ma-ri-a (xc. Lc 1,26-38). Trình thuật thứ ba này có vai trò nối kết và tiếp theo hai trình thuật trên. Đức Ma-ri-a đến thăm chị họ Ê-li-sa-bét trong tình trạng “được đầy ân sủng” (Lc 1,28). Và Đức Ma-ri-a đang vui sướng hân hoan vì có Chúa ở trong lòng. Hai bà mẹ gặp nhau trong tình trạng đang cưu mang hai người con đặc biệt vì có sự tác động của quyền năng Thiên Chúa. Riêng Đức Ma-ri-a cưu mang Hài nhi Giê-su mà vẫn đồng trinh. Sự kiện này làm cho bà Ê-li-sa-bét càng tin rằng, người con Đức Ma-ri-a đang cưu mang còn cao trọng và cả thể hơn biết nhường nào. Điều này cũng dẫn đến việc bà Ê-li-sa-bét vui mừng phấn khởi hơn gấp bội vì được Đức Ma-ri-a – Đấng đầy ân sủng đến viếng thăm mình.

  1. Ý nghĩa bản văn

Bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Gia-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Sau khi nhận lời thiên thần truyền tin, Đức Ma-ri-a đón nhận hồng phúc cưu mang Con Thiên Chúa. Hồng phúc đó quá đỗi lớn lao, Người không bao giờ nghĩ một nữ tỳ ở vùng quê hẻo lánh lại được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Có thể niềm vui đó đã khiến Đức Ma-ri-a cất bước ra đi đến với bà chị họ để cùng bà chị họ tường thuật những việc lạ lùng cả thể xảy đến cho cả hai chị em. Vì Người cũng biết bà Ê-li-sa-bét đang mang thai một cách đầy lạ lùng (xc. Lc 1,36). Bởi vậy, Người đã vội vã ra đi.

Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng Đức Ma-ri-a chào thì đứa con trong bụng nhảy lên và bà được đầy tràn Thánh Thần. Bà Ê-li-sa-bét liền thốt lên,“em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” Đức Ma-ri-a là người được đầy tràn Thánh Thần, việc cưu mang con Thiên Chúa đã giúp Đức Ma-ri-a có Chúa Thánh Thần luôn ở cùng. Quyền năng của Người bao phủ Đức Ma-ri-a. Việc cưu mang hài nhi Giê-su cũng là bởi quyền năng của Thánh Thần. Bởi vậy, khi nghe tiếng Đức Ma-ri-a chào thì Gio-an Tẩy Giả trong bụng nhảy lên vì vui sướng và bà Ê-li-sa-bét cũng được diễm phúc đón nhận sinh lực Thánh Thần từ Đức Ma-ri-a. Đức Ma-ri-a giờ đây trở thành người chuyển thông ơn phúc Thiên Chúa cho mọi người. Việc được đầy tràn Thánh Thần giúp bà Ê-li-sa-bét xác tín hơn vào những điều Thiên Chúa thực hiện nơi mình và càng thúc đẩy bà ca tụng Đức Ma-ri-a nhiều hơn nữa. Vì nhờ Thánh Thần thúc đẩy, bà biết rằng, người con Đức Ma-ri-a cưu mang là Con Thiên Chúa và Đức Ma-ri-a chính là Mẹ Thiên Chúa. Như thế, cùng với Đức Ma-ri-a lúc này, hơn ai hết bà cảm nhận được mình nhỏ hèn biết dường nào và Thiên Chúa giàu lòng xót thương những người phận nhỏ như bà biết bao.

Tuy nhiên, vượt lên trên những ý nghĩa của cuộc thăm viếng thông thường, sự kiện Đức Ma-ri-a mang thai Đức Giê-su liền ra đi đến nhà bà chị họ cho ta những ý nghĩa còn sâu xa hơn. Đó là nhờ việc cưu mang Đức Giê-su, giờ đây Đức Ma-ri-a được ví như hòm bia thánh. Điều này sẽ được cũng cố bằng việc so sánh với đoạn Kinh Thánh trong sách Sa-mu-en: Việc Đức Ma-ri-a vội vã lên đường được ví với hành động vua Đa-vít lên đường đưa Hòm Bia Thiên Chúa về Giê-ru-sa-lem (xc. 2 Sm 6,2); Đồng thời việc bà Ê-li-sa-bét thốt lên, “bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này” (Lc 1,43) cũng tương ứng với việc Đa-vít nói, “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2 Sm 6,9). Việc hài nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng khi được Đức Ma-ri-a đến thăm (xc. Lc 1,41.44) cũng tương ứng với việc vua Đa-vít vui mừng nhảy múa hết sức trước Hòm Bia (xc. 2 Sm 6, 12-16).

Như vậy, khi ý thức mình mang trong người Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đem tin vui và ơn phúc này đến chia sẽ cho người khác. Đức Ma-ri-a ý thức rằng, hồng phúc mà mình nhận được không phải là của riêng mình, mà Người chỉ là người được chọn, được sủng ái để mang Đấng Cứu Thế đến cho nhân loại mà thôi. Nên việc Đức Ma-ri-a ra đi đến với người khác chính là đem ơn cứu độ đến cho người khác, cụ thể ở đây là bà Ê-li-sa-bét. Như thế, ta cũng biết rằng, nhờ việc cưu mang Đấng Cứu Thế, Đức Ma-ri-a là người được đón nhận ơn cứu độ đầu tiên. Đức Ma-ri-a là người được Thiên Chúa xót thương đầu tiên. Cảm nhận được việc Thiên Chúa xót thương mình, Đức Ma-ri-a cũng đem tình thương của Thiên Chúa đến cho người khác.

Ta thấy sau đó bà Ê-li-sa-bét cũng tiếp tục ca khen Đức Ma-ri-a, bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này. Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc vì đã tin rằng, Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em. Đức Ma-ri-a có phúc vì trên hết Người đã tin vào ý định Thiên Chúa trên cuộc đời mình. Thiên Chúa có thể ban ơn cứu độ qua thân phận yếu hèn của mình. Lòng tin đó đã là tiền đề cho Thiên Chúa thực hiện bao kỳ công trên cuộc đời của Đức Ma-ri-a sau này. Quả thật, Đức Ma-ri-a đã tin vào một Thiên Chúa tín trung và yêu thương (xc. Lc 1,45). Lời hứa cứu chuộc dân Người (xc. St 3,15) nay sắp được hiện thực nơi con người của Đức Ma-ri-a.

  1. Bài học thực hành

Đức Ma-ri-a đem niềm vui đến chia sẻ cho người chị họ là mẫu gương cho chúng ta biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống hằng này. Có nhiều điều chúng ta cần chia sẻ cho nhau. Mỗi người chúng ta không thể sống cô lập được, vì con người là hữu thể có tương quan. Do đó, hành vi chia sẻ là hành vi mang tính cách liên đới giữa con người xã hội với nhau. Chúng ta chia sẻ cho nhau niềm vui là chúng ta nhận được lại sự phấn khởi vui mừng lớn lao hơn. Mặt khác, nếu chúng ta chia sẻ nỗi buồn thì chúng ta nhận được lại sự cảm thông, động viên khích lệ từ tha nhân. Do đó, cuộc sống cần sự liên đới và chia sẻ với nhau. Hình ảnh chia sẻ niềm vui của Đức Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét cho ta cảm nhận được niềm hạnh phúc đó.

Phúc lành của Thiên Chúa đến trên mỗi người chúng ta là để sinh ích cho chính bản thân mình và tha nhân. Do đó, hành vi chia sẻ hồng ân mình nhận lãnh cũng là trách nhiệm và bổn phận của mỗi người chúng ta. Chúng ta phải biết dùng những khả năng Thiên Chúa ban cho mình để cống hiến cho tha nhân và xã hội. Như vậy là chúng ta đang sử dụng đúng ý của Thiên Chúa về những ơn phúc mà Người đã ban xuống cho mình. Hơn ai hết, Đức Ma-ri-a ý thức được mình có phúc vì đã mang Đấng Cứu Thế cho nhân loại nên Người đã không giữ lấy riêng ân phúc đó mà nhanh nhẩu ra đi đem tin vui cứu độ đến cho người chị em của mình.

Sự ích kỷ gặm nhấm lòng quảng đại và trắc ẩn nơi mỗi người chúng ta. Nó làm cho chúng ta thu mình lại, không muốn tiếp xúc với tha nhân. Vì khi giúp đỡ, gặp gỡ tha nhân, dường như ta sợ mất mát một cái gì đó mà chúng ta cứ nghĩ là thuộc về mình, như thời gian, tiền bạc, sức lực,… Nhưng có mấy ai nghĩ những thứ đó là ân phúc Thiên Chúa đang đổ xuống cho mình. Chúng ta khư khư giữ những thứ đó và chỉ sống riêng cho chính bản thân chúng ta thì quả là uổng phí và đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa. Noi gương Đức Ma-ri-a, chúng ta phải mở rộng con tim mình ra, đem những thứ mình đang có để phục vụ anh chị em đồng loại như Đức Ma-ri-a sau khi có Đức Giê-su trong lòng liền đến với bà Ê-li-sa-bét vậy.

Hành động rước lấy Đức Giê-su vào lòng mỗi khi tham dự thánh lễ của chúng ta cũng giống như hành vi cưu mang Đấng Cứu Thế của Đức Ma-ri-a vậy. Đức Ma-ri-a khi có Chúa trong mình thì ra đi chia sẻ tin vui cứu độ cho người khác. Sau khi rước lấy Đức Giê-su vào lòng, chúng ta cũng hãy đi loan báo Tin mừng cứu độ cho những người nghèo khổ, ốm đau, những kẻ không nơi nương tựa. Mỗi lần chúng ta chìa đôi bàn tay ra nâng đỡ những phận đời bất hạnh đó là chúng ta đang nối dài công trình cứu độ của Con Thiên Chúa. Mỗi lần chúng ta trao cho những mãnh đời đói khổ đó miếng cơm manh áo là chúng ta đang sử dụng hoàn hảo hồng ân Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận. Như thế là chúng ta cùng Đức Ma-ri-a loan truyền lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho muôn dân.

  1. Bài Magnificat – Bài ca ngợi khen Lòng Thương Xót (Lc 1,46-55)

Bài ca Magnificat là tổng hợp các lời ca của thiếu nữ Si-on nhằm ca tụng Thiên Chúa trong khi chung thủy chờ đợi Người đến cứu thoát dân Ít-ra-en. Si-on là tên pháo đài của thành phố Giê-ru-sa-lem, khi Đa-vít chiếm được nó thì đổi tên sang “thành phố Đa-vít” (xc. 2 Sm 5,6-10) và đưa hòm bia Thiên Chúa về đây (xc. 2 Sm 6,1-12). Sau này Vua Sa-lô-môn xây cất đền thờ tại đây thì Si-on và “đền thờ Chúa” được coi là một. Đôi khi Si-on được dùng để chỉ toàn thể thành phố Giê-ru-sa-lem (xc. Is 37,32; 52,1-2). Sau thời lưu đày, I-sai-a gọi tên toàn dân Giê-ru-sa-lem là “thiếu nữ Si-on” khi nói đến sự phục hưng của dân tộc. Việc tái thiết Giê-ru-sa-lem khởi đầu cho việc Chúa cứu chuộc dân Người: Giê-ru-sa-lem tức là Si-on sẽ trở thành mẹ của dân Ít-ra-en mới (xc. Is 62,11; 66,6-10).

Nhưng trước hết, công cuộc phục hưng Ít-ra-en khởi đầu từ nhóm người còn sót lại quê hương từ trước thời lưu đày. Nhóm này được gọi là “nhóm nghèo của Thiên Chúa” mà ngôn sứ Xô-phô-ni-a là tiêu biểu trong số họ. Nhóm này chủ trương tìm kiếm sự nghèo khó về mặt thiêng liêng, biết sống chung thủy, phó thác vào Thiên Chúa trong hoàn cảnh nước mất nhà tan. Khi tâm hồn họ càng biết khiêm tốn bao nhiêu thì họ lại càng gần Thiên Chúa bấy nhiêu. Sự nghèo khó của họ cũng được đồng hóa với sự khiêm nhường thánh thiện. Cũng chính trong hoàn cảnh ấy mà Đấng Thiên Sai được I-sai-a loan báo như là một tôi tớ nghèo hèn của Thiên Chúa chứ không phải như hoàng thân quốc thích của Nhà Đa-vít nữa. Hiểu như vậy để biết chính người nghèo của Thiên Chúa là những người đầu tiên được lãnh nhận ơn cứu rỗi. Magnificat là bài ca tổng hợp những lời ca của những người được gọi là Người nghèo của Thiên Chúa trong Cựu Ước với mục đích ngợi khen và tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa và hy vọng Thiên Chúa sẽ giải thoát dân Người khỏi cảnh khốn cùng.

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa – Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người (Tv 34,4).

Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi – Tâm hồn con hoan hỷ vì Đức Chúa, nhờ Đức Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang (1 Sm 2,1).

Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới – Lạy Đức Chúa các đạo binh, nếu Người đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Người đây, nếu Người nhớ đến con và không quyên nữ tỳ Người, nếu Người cho nữ tỳ Người một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Đức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó (1 Sm 1,11).

Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc – Tôi hạnh phúc biết bao! Vì các cô gái sẽ khen ngợi tôi có phúc (St 30,13).

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn – Người đem lại cho dân ơn giải thoát, thiết lập giao ước đến muôn đời. Tôn danh Người thánh thiêng khả úy (Tv 111,9).

Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người – Ân tình Chúa thiên thu vạn đại, dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn (Tv 103,17).

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng – Chính Người giày xéo thủy thần Ra-háp, như giày xéo tử thi, tay mạnh mẽ đập tan quân thù (Tv 89,11).

Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường – Người lật đổ những kẻ quyền uy ( G 12,19).

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư – Họng ráo khô, Chúa cho uống phỉ tình, bụng đói lả, Người cho ăn thỏa thích (Tv 107,9).

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta – Nhưng phần ngươi, hỡi Ít-ra-en, tôi tớ của Ta,… Ta đã nói với ngươi: Ngươi là tôi tớ Ta, Ta đã chọn ngươi, Ta đâu ruồng bỏ (Is 41, 8-9).

Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời – Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa  dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (Tv 98,3).

Trong hoàn cảnh Đức Ma-ri-a vừa được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế mà muôn dân trông đợi hàng bao nhiêu thế kỷ nay. Người hay tin bà chị họ là Ê-li-sa-bét cũng đã mang thai trong lúc tuổi già, nên vội vã lên đường đến thăm và giúp đỡ người chị họ ấy. Khi hai người gặp nhau, bà Ê-li-sa-bét chúc mừng Đức Ma-ri-a: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (Lc 1,42). Và bà vui mừng thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,43). Ngay cả bào thai trong bụng bà Ê-li-sa-bét cũng vui mừng đến nỗi nhảy lên! Trong bầu khí tràn ngập niềm vui ấy, Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca Magnificat với nội dung như trên để tán dương và tạ ơn Thiên Chúa vì đã thương đến những người hèn mọn khiêm nhu. Như thế, Đức Maria cũng là đại diện ưu tú cho nhóm “người nghèo của Thiên Chúa”, của “thiếu nữ Si-on”, nhóm người luôn được Thiên Chúa xót thương xuyên suốt dòng lịch sử Ít-ra-en.

  1. Khuôn mặt thương xót của Đức Ma-ri-a

Trong lúc thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a không tìm được chỗ trọ khi về Bê-lem để kê khai dân số. Đức Ma-ri-a phải sinh Đức Giê-su trong hoàn cảnh khó khăn: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,7). Đức Ma-ri-a sinh con đầu lòng mà không có chỗ để cho con chào đời đàng hoàng, lại lấy tã bọc và đặt nằm trong máng cỏ. Hài nhi sinh ra trong hoàn cảnh như thế cũng dự báo một tương lai không có gì tươi sáng. Mặt khác, Đức Ma-ri-a vốn cơ cực nghèo khó nay lại chứng kiến con mình sinh ra trong cảnh nghèo như vậy ắt Người phải đau lòng lắm! Quả thật, truyền thống Ki-tô giáo đã so sánh cảnh Đức Giê-su hạ sinh với cảnh thi hài Đức Giê-su được ông A-ri-ma-tê-a lấy khăn liệm vào trong huyệt đá sau này (xc. Lc 23,53).

Đức Ma-ri-a chứng kiến cảnh tượng táng xác con mình như thế chắc hẳn trong tâm trí Người lại tuồn về hình ảnh cũng ngày nào đó chính Người đã dùng tã quấn cho con mình lúc chào đời trong hang đá. Hai sự kiện chào đời và kết thúc cuộc đời của Đức Giê-su dường như đã in đậm trong lòng của Đức Ma-ri-a. Người đã chứng kiến và đi hết quảng đời gian khó với con mình ở trần gian. Sự đau khổ của Đức Ma-ri-a lúc này chẳng thể nào tả xiết. Nếu là một người mẹ trần gian, chắc chúng ta phải thấu hiểu nỗi khổ của Đức Ma-ri-a trong hoàn cảnh này lắm!

Sự kiện tiếp theo là việc Đức Ma-ri-a dâng con vào đền thờ (xc. Lc 2,22) để hoàn tất Luật Chúa truyền (xc. Lc 2,39). Chúng ta lưu ý hai điểm trong sự kiện Đức Ma-ri-a dâng con trong đền thờ. Thứ nhất, việc Đức Ma-ri-a tiến dâng con vào đền thờ tiên báo một hành vi hiến tế của con mình trên thập giá: Từ đây ta thấy, Mẹ khước từ phần thuộc về mình để dâng tiến cho Thiên Chúa tất cả. Thứ hai, sau khi tiên báo về số phận của Đức Giê-su, ông Si-mê-on cũng nói về Đức Ma-ri-a, “một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35). Như vậy, Đức Ma-ri-a sẽ cùng chung số phận cay đắng với con của mình. Lưỡi gươm diễn tả mầu nhiệm thập giá mà sau này Đức Ma-ri-a cùng kinh qua với Đức Giê-su.

Biến cố lạc con trong đền thờ cũng làm xao động tâm hồn Đức Ma-ri-a (xc. Lc 2,41-50). “Sau ba ngày ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ” (Lc 2,46) cho chúng ta liên tưởng việc Đức Ma-ri-a sau này cũng xa lìa con mình ba ngày trong biến cố tử nạn và Phục sinh. Đó chính là dấu hiệu báo trước cái chết của Đức Giê-su mà Đức Ma-ri-a sau này phải chứng kiến. Sự kiện lạc mất con khiến Đức Ma-ri-a đau khổ thế nào thì sau này biến cố tử nạn trong mồ ba ngày cũng làm cho Đức Ma-ri-a đau khổ như vậy. Chính vì phải lo lắng khổ sở để tìm kiếm con mình mà Đức Ma-ri-a ra như trách móc con mình, “con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Đức Giê-su giải thích là Người phải làm việc của Cha Người. Qua đó, “Đức Giê-su đã muốn tiên báo rằng, một ngày nào đó, Đức Ma-ri-a sẽ phải chịu cảnh chia ly, khi Người ra đi để lo công chuyện mà Chúa Cha trao phó.” [12]

Cùng với đó ta lại thấy cảnh khi Đức Giê-su đi rao giảng Tin mừng, Đức Ma-ri-a và các môn đệ đến xin gặp Người. Vì dân chúng quá đông, nên người ta báo cho Người biết có Mẹ và anh em Người đến gặp. Hẳn là Đức Ma-ri-a rất đau lòng khi phải nghe câu nói từ miệng chính người con mình mang nặng đẻ đau thốt ra, “mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,19-21). ­Chúng ta có thể đối chứng sự kiện này với Mt 12,46-50 và Mc 3,31-35 để thấy được câu trả lời trông có vẻ rất phủ phàng của Đức Giê-su đối với mẹ mình. Tuy nhiên xét về phương diện đức tin, Lu-ca muốn nêu bật vai trò người môn đệ của Đức Ma-ri-a trong việc lắng nghe và thực hành lời Thiên Chúa. Do đó, từ cương vị một người mẹ theo cảm tính tự nhiên, Đức Ma-ri-a phải vượt lên đến tầm mức siêu nhiên để chiêm ngắm những kỳ công của Thiên Chúa thực hiện nơi bản thân mình qua con người Đức Giê-su. Quả thật, những điều đó đã được Đức Ma-ri-a thực hiện từ lúc mang thai Đức Giê-su và cho tới sau này qua việc chứng kiến cuộc Vượt Qua trong Tin mừng Gio-an (xc. Ga 19,25-27) và trong biến cố họp nhau ở phòng hội trong Công vụ tông đồ mà Lu-ca mô tả lại.

Sau khi chứng kiến Đức Giêsu về trời, các môn đệ trở về Giê-ru-sa-lem, họ lên lầu và “đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, và Maria, mẹ của Đức Giê-su” (Cv 1,13-14). Như xưa, Chúa Thánh Thần tác động vào lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và Người đã thụ thai thế nào thì giờ đây trong phòng hội với sự hiện diện của Đức Ma-ri-a cũng có thể ví được là thời kỳ Đức Ma-ri-a mang thai Hội Thánh, khi Người hiện diện giữa các ông trong vai trò là người Mẹ. Đức Ma-ri-a là cầu nối quy tụ các ông sau biến cố phục sinh. Những ngày trong phòng hội là thời gian để Đức Ma-ri-a cùng với các môn đệ khác ôn lại những ký ức sống động về Đức Giê-su. Như thế, Đức Ma-ri-a quả thực là ký ức của Hội thánh về Đức Giê-su. Lu-ca đã nêu bật sự kiện Đức Ma-ri-a là một thành viên thuộc cộng đoàn các tín hữu sau biến cố Phục sinh. Tính cách người môn đệ của Đức Ma-ri-a tỏ lộ sáng ngời trong cộng đoàn đầu tiên này. Như thế, Đức Ma-ri-a là người môn đệ hoàn hảo nhất của Đức Giê-su, vì đã theo Người từ đầu tới cuối. Như thế, “Đức Ma-ri-a đã đi tiên phong trên con đường đức tin, con đường thanh luyện, và nhờ đó trở nên gương mẫu và dìu dắt chúng ta trên đường lữ hành đức tin”[13].

Đức Ma-ri-a luôn đồng hành với Đức Giê-su trong mọi biến cố quan trọng của cuộc đời. Sau này Người cũng đồng hành với Hội Thánh sơ khai. Điều đó cho chúng ta thấy Người luôn cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Con đường Đức Ma-ri-a đã đi là con đường của lòng thương xót, con đường của hy sinh, con đường của đức tin. Đời sống gắn bó kết hiệp mật thiết của Người với Đức Giê-su khiến cho nhân loại phải cảm phục. Nhân loại ngày nay cũng noi theo con đường của Đức Ma-ri-a, sống như Người đã sống, phó thác đời mình cho Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Nhờ thế, chính chúng ta cũng trở nên những con người có phúc và được đón nhận lòng thương xót từ Thiên Chúa qua mẫu gương Đức Ma-ri-a. Những điều trên cho chúng ta có được một nền linh đạo tiên phong và hoàn hảo trong Hội Thánh, đó là linh đạo Đức Ma-ri-a. Hay nói cách khác, linh đạo Đức Ma-ri-a chính là cuộc đời của Người như Lu-ca mô tả cho chúng ta thấy ở trên.

Khi chiêm ngắm khuôn mặt thương xót của Đức Ma-ri-a trong Tin mừng Lu-ca dưới ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể, chúng ta cũng được mời gọi sống một cuộc đời như Người đã sống. Vì Người đã tham dự mật thiết vào công trình cứu độ, nên khi chiêm ngắm mẫu gương Đức Ma-ri-a, Người cũng mời gọi chúng ta đến với Đức Giê-su. Qua đó, chúng ta noi gương Đức Ma-ri-a ra đem Tin mừng thương xót của Thiên Chúa đến với muôn dân. Quả thật, “trong cuộc sống, Đức Ma-ri-a là tấm gương của tình yêu thương mang đậm tính hiền mẫu, một tình thương cần được thể hiện cách sống động nơi tất cả những ai đang cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Hội Thánh để tái sinh nhân loại.”[14]

  1. Thực hành lòng thương xót trong thế giới ngày nay

Tôn trọng nhân phẩm. Con người là hữu thể được Thiên Chúa dựng nên. “Con người là hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,24). Do đó, trước mặt Thiên Chúa, con người có giá trị ngang nhau. Người da trắng cũng như da màu, người miền xuôi cũng như miền ngược, người nghèo cũng như người giàu,… tất cả đều có chung nhân phẩm người. Do đó, những hành vi hạ thấp phẩm giá con người là chống lại Thiên Chúa, đi ngược lại ý định tốt đẹp của Thiên Chúa khi dựng nên con người. Hành vi hạ thấp nhân phẩm đó có thể là việc buôn bán nô lệ, việc bóc lột sức lao động quá đáng, lợi dụng sức lao động rẻ mạt đến từ công dân các nước thuộc thế giới thứ ba, coi phụ nữ như một món hàng để trao đổi, hạ thấp thân xác, ép buộc mại dâm và bóc lột trẻ em, nạn phá thai,… Tất cả những hành động đó đi ngược lại với phẩm giá con người và  lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong xã hội hiện nay, vì lòng tham về lợi nhuận kinh tế, các công tý xí nghiệp sẵn sàng làm hại tới sức khỏe con người bằng cách sản xuất thực phẩm bẩn, thực phẩm giả, sử dụng hóa chất độc hại,… rồi đem ra thị trường tiêu thụ. Người dân sử dụng những sản phẩm đó sinh ra bệnh tật. Và hậu quả của nó là ung thư ngày nay trở thành vấn nạn của người dân Việt Nam. Rõ ràng, nhân phẩm bị hạ giá so với lợi nhuận.

Tôn trọng tự do. Tự do là giá trị cao quý nhất mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Thiên Chúa dựng nên con người và để cho con người làm chủ công trình tay Người sáng tạo (xc. St 1,26). Song song với việc cho con người làm chủ đó, con người cũng được ban cho tự do toàn quyền trên các thụ tạo mà Người dựng nên. Đồng thời, con người cũng được quyền tự do định liệu chính cuộc đời của mình (xc. Hc 15,14). Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng, tự do đích thực là hành động hướng đến việc ngợi khen Thiên Chúa (xc. Hc 17,3-10). Tự do đó còn là quyền xét đoán lương tâm là của mỗi người, quyền tự do tôn giáo, quyền lập các tổ chức hiệp hội, quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt ý kiến, quyền tự do di trú, quyền tự do sinh sống,… Xét cách rộng rãi hơn, ta thấy các quốc gia dân tộc cần được độc lập. Các hành vi xâm chiếm lãnh thổ, đồng hóa dân tộc khác, bỏ tù những người bất đồng quan điểm của chính quyền hay của những nhóm người có quyền là hành vi đi ngược lại quyền tự do của con người. Như thế, con người đang lạm dụng tự do một cách quá đáng. Con người để cho lòng tham lấn át lý trí, áp chế lên tự do của mình mà làm điều bất chính. Do đó, con người có thể dùng tự do mà sinh ích cho bản thân và cũng có thể làm điều tội lỗi đối với tha nhân và chính mình. “Tự do của con người, vì bị tội lỗi làm tổn thương, nên chỉ nhờ ơn Chúa trợ lực mới có thể thực hiện cách trọn vẹn động tác hướng về Thiên Chúa. Và trước tòa án Thiên Chúa, mỗi người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình căn cứ vào điều thiện hay điều ác đã làm”[15].

Sống công bằng. Công bằng là giá trị thể hiện quyền được hưởng cuộc sống chính đáng của con người trong xã hội. Các giá trị của cuộc sống như nhu cầu tối thiểu để đảm bảo cuộc sống cho người người như cái ăn, cái mặc, nơi cư trú, quyền sở hữu,…. Tất cả những điều đó con người cần có để được sống đúng mức một con người với đầy đủ nhân phẩm của họ. Sự công bằng cần được thể hiện ngay trong chính các tổ chức, cơ quan xí nghiệp đối với công nhân. Các thành viên trong gia đình cũng cần được đối xử công bằng với nhau, điều này phải được biểu hiện qua cách ứng xử công minh chính trực của bậc làm cha làm mẹ. Công bằng ở đây còn có nghĩa là trả lại cho người ta những giá trị đáng ra thuộc về họ theo khả năng của chính họ. Công bằng giao hoán phải được thực hiện một cách tối đa theo khả năng có thể trong các cộng đoàn tôn giáo và tổ chức xã hội. Vượt lên trên công bằng giao hoán, chúng ta cần đối xử với nhau bằng tình yêu của người cha nhân hậu, nghĩa là cần có công bằng phân phối để thỏa mãn nhu cầu của mỗi người trong cộng đoàn xã hội. Công bằng này đòi hỏi những người làm chủ, lãnh đạo các tổ chức đoàn thể cần có trái tim của người cha để lãnh đạo các thành viên dưới quyền mình. Họ cần nhận ra các nhu cầu chính đáng của mỗi thành viên để đáp ứng cho thành viên được hưởng một cuộc sống đúng với những gì họ cần có.

Nâng đỡ kẻ yếu hèn. Công bằng với nhau trong cuộc sống thì chưa đủ. Thực hành lòng thương xót còn là nâng đỡ kẻ hèn yếu. Những kẻ hèn yếu, cô thế cô thân, lang thang không nhà không cửa trong xã hội là những người chúng ta cần quan tâm một cách đặc biệt. Xã hội văn minh tiến bộ phải là một xã hội mang trong mình lòng thương xót của người Sa-ma-ri nhân hậu. Nghĩa là các thành viên trong cộng đồng phải tương trợ lẫn nhau. Bỏ qua những ranh giới của sự kỳ thị chủng tộc, màu gia, tôn giáo,… để đến với nhau bằng sự thông cảm, sẻ chia, ân cần chăm sóc. Muốn nâng đỡ kẻ yếu hèn, chúng ta cần vượt qua khái niệm người thân cận theo kiểu tính huyết tộc, tính cục bộ để đi đến với khái niệm người thân cận trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu. Nghĩa là thực thi lòng thương xót một cách vô vị lợi, yêu thương bằng cách cho đi hết những gì mình có thể cho đối với những người cô thế cô thân. Thực thi điều đó là chúng ta đang đi đến khái niệm anh em thân cận theo nghĩa của Tin mừng.

Hình ảnh một anh thu thuế tên là Da-kêu muốn gặp Đức Giê-su nhưng anh ta quá thấp trong khi đám đông lại chen nhau khiến anh không thể tận mắt thấy Người, ông bèn chạy lên cây sung để được nhìn thấy Đức Giê-su. Khi vừa trông thấy anh ta, Đức Giê-su gọi anh xuống và vào nhà ông. Dân chúng ở đó xầm xì, nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ, Đức Giê-su đáp, Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (xc. Lc 19,1-10). Lòng thương xót không có biên giới. Hành vi nâng đỡ cô thân yếu thế đòi hỏi chúng ta phải vượt qua rào cản của thành kiến, của văn hóa, của vùng miền, của sự phân cấp giàu nghèo,… để sẵn sàng mở rộng vòng tay nâng đỡ những ai đang cần đến chúng ta.

Tha thứ cho nhau. Chính Đức Giê-su là mẫu hình lý tưởng cho sự tha thứ này. Trên thập giá, Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ Người. Ngày nay, mối hiềm khích cũng đang tồn tại âm ỉ giữa các cá nhân với nhau, giữa các nhóm sắc tộc, giữa các nhóm tôn giáo, giữa các đảng phái, giữa các quốc gia với nhau. Tuy nhiên, để có được sự tha thứ, chúng ta phải vứt bỏ tính hận thù đó. Chính thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã thực thi lòng thương xót bằng cách tha thứ cho kẻ ám sát Người là Mehmet Ali Agca vào ngày 13/05/1981. Nhân dịp hội thảo: “Bất bạo lực và công chính hòa bình: góp phần thông hiểu bất bạo lực và cam kết thực hiện bất bạo lực của người công giáo”, tổ chức tại Rôma từ 11 đến 13 tháng 4-2016 Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã gởi tới Hồng y Angelo Scola bức thư trong đó có những lời như: “Chúng ta có thể vượt lên được sự dửng dưng – nhưng chỉ vượt lên được nếu chúng ta bắt chước Chúa Cha, rằng chúng ta có khả năng chứng tỏ mình có lòng thương xót,… Chúng ta phải sẵn sàng tha thứ và nhận lấy. Chúng ta không được khởi đi từ nguyên tắc cho rằng người khác là sai. Ngược lại, khi chấp nhận các khác biệt của chúng ta, và vẫn trung thành với các quan điểm của mình, chúng ta phải tìm điều tốt cho tất cả mọi người; và sau khi tìm được thỏa thuận, chúng ta phải cương quyết duy trì.”

Yêu thương kẻ thù nghịch. Lại một lần nữa, hình ảnh người Sa-ma-ri đã bỏ qua sự thù hận để cúi xuống phục vụ người bị nạn là minh chứng sống động cho lòng tha thứ, yêu thương kẻ thù nghịch với mình. Đoạn Tin mừng sau đây Lu-ca cho chúng ta thấy rõ hơn lòng thương xót tha thứ mà Đức Giê-su muốn nơi những kẻ đi theo Người. “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Anh em muốn hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.

Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Ðấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.

 “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em Ðấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người ta sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6, 27 – 38).

Đối thoại để hướng đến lòng thương xót. Đối thoại phải được đặt vào trong tinh thần Kitô giáo và dưới sự hướng dẫn, thánh hoá của Chúa Thánh Thần. Muốn đối thoại có hiệu quả, trước hết chúng ta phải biết lắng nghe. Lắng nghe giúp chúng ta thấu hiểu hoàn cảnh của đối phương. Nhờ thế chúng ta có thể tìm ra hướng giải quyết hợp tình hợp lý hơn. Vì khi không biết lắng nghe, chúng ta dễ giải quyết sự việc theo hướng chủ quan, thường có lợi cho phía mình, hoặc thiên về đánh giá hiện tượng bên ngoài hơn là tìm hiểu nội tình bên trong.

Do vậy, đối thoại ở đây là để tìm kiếm sự thật để đi đến việc thực thi lòng thương xót. Vì khi hiểu sự thật qua đối thoại, chúng ta dễ cảm thông, chia sẻ hơn với người anh em của mình.“Niềm ước mong đối thoại đó chỉ do lòng yêu chân lý hướng dẫn và dĩ nhiên vẫn giữ được sự khôn ngoan thích hợp; về phần chúng tôi, niềm ước vọng này không loại trừ một ai hết: từ những người đang tôn thờ những giá trị tinh thần nhân bản cao quí mà chưa nhận biết Đấng Tạo Thành đến những ai chống đối và bách hại Giáo Hội bằng nhiều cách. Vì Thiên Chúa Cha là nguyên lý và cùng đích mọi sự, nên tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm anh em với nhau. Và vì thế, được gọi lãnh nhận thiên chức làm người và làm con Thiên Chúa, chúng ta có thể và phải cộng tác, không bạo động, không xảo trá để xây dựng một thế giới trong hòa bình đích thực.”[16]

  1. Kết luận

Lu-ca là tác giả Tin mừng đề cao về lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng thương xót đó được thánh sử khắc họa trong cuộc đời và sứ mạng của Đức Giê-su Ki-tô. Hành trình dương thế của Đức Giê-su cùng những việc làm của Người đã làm nỗi bật lên chân dung một vị Thiên Chúa đến để cứu vớt nhân loại. Bằng đời sống và những lời rao giảng, Người đã quy tụ tất cả dưới bàn tay uy quyền nhưng giàu lòng thương xót của Thiên Chúa. Lu-ca cho chúng ta những áng văn về lòng thương xót của Thiên Chúa một cách đặc biệt mà các thánh sử khác không đề cập đến. Nhờ Lu-ca mà ta biết được một Vị Thiên Chúa đó hằng yêu thương, và bao dung cho tất cả mọi người, kẻ cả quân tội lỗi vô ơn (Xc. Lc 6,35). Vị Thiên Chúa đi sâu vào trong cảm thức của con người, thấu hiểu được sự yếu đuối của người trót phạm tội, nhờ đó Người có thể nâng đỡ họ dậy (xc. Lc 7,36-50). Hình ảnh người Sa-ma-ri nhân hậu cho chúng ta biết về một Vị Thiên Chúa của sự yêu thương tha thứ.

Hành vi phục vụ của người Sa-ma-ri còn là hành vi ra khỏi chính con người của mình, ra khỏi rào cản của sự kỳ thị tôn giáo, hận thù, sắc tộc … để phục vụ người khốn khó (xc. Lc 10,30-37). Lu-ca cũng thuật lại cho chúng ta thấy hình ảnh Thiên Chúa giàu lòng thương xót, hằng ngong ngóng đợi chờ con người trở về với Người qua dụ ngôn Người Cha nhân hậu (xc. Lc 15, 11-32). Và mục đích của con Thiên Chúa đến thế gian cũng rất rõ ràng, Người đến để cứu chữa người tội lỗi, đến vì lòng thương xót. Câu chuyện Da-kêu, người thu thuế tội lỗi được ơn công chính hóa cho ta biết điều đó (xc. Lc 19,1-10), hay hành vi sám hối của tên trộm được chính Đức Giê-su hứa ban Nước Trời (xc. Lc 23,39-43). Tất cả những trình thuật ấy Lu-ca cho chúng ta nhận ra được có một Vị Thiên Chúa giàu lòng xót thương qua con người của Đức Giê-su.

Biến cố thương khó, Phục sinh là minh chứng cụ thể cho việc loan truyền và thực hành lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Con Thiên Chúa xuống thế làm người không những để rao giảng cho nhân loại biết Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương, Người còn dùng chính mạng sống của mình để chứng minh cho tình yêu đó. Cái chết khổ hình trên thập giá và sự Phục sinh vinh quang của Người có giá trị cứu chuộc nhân loại. Sự Phục sinh của Người đưa nhân loại từ cảnh nô lệ tội lỗi sang cảnh tự do đích thực, tự do được sống trong ân nghĩa cùng Thiên Chúa, được phục hồi phẩm giá con cái Thiên Chúa.

Đức Ma-ri-a hình ảnh của lòng thương xót. Từ đầu đến cuối sách Tin mừng, Lu-ca đã khắc họa cho chúng ta chân dung một Đức Ma-ri-a luôn đồng hành cùng Con Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống. Từ khi thụ thai cho đến khi hình thành Hội Thánh sơ khai, Đức Ma-ri-a luôn mang trong mình tâm tình của người mẹ vì con, đi theo con trên mọi hành trình gian khó của cuộc đời. Bằng đức tin kiên vững vào Thiên Chúa, Người đã cùng Con Thiên Chúa đi qua những gian khổ của cuộc đời để góp phần vào công cuộc cứu chuộc nhân loại. Đời sống của Người quả thật là một mẫu gương vì tha nhân. Đức Ma-ri-a là cánh tay nối dài cho lòng thương xót của Thiên Chúa được thực hiện trên nhân loại, là dấu chỉ và là chứng nhân của Lòng Thương Xót. Nên Đức Ma-ri-a được tôn phong là Mẹ của lòng thương xót. Quả thật, “không ai thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho bằng Đức Maria. Toàn bộ cuộc sống của Người được định hình bởi sự hiện diện của Lòng Thương Xót trở nên xác phàm. Thân Mẫu của Đấng Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh đã bước vào thánh điện của Lòng Thương Xót, vì đã thông dự mật thiết vào mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa.”[17]

Sau khi cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Noi gương Đức Ma-ri-a, mỗi người chúng ta hãy là chiếc cầu cho lòng thương xót của Thiên Chúa đến được với những người sống chung quanh mình. Trước hết chúng ta hãy thể hiện lòng thương xót đó ngay với những người trong gia đình, trong khu xóm của chúng ta. Sau đó, là môn đệ của Đức Giê-su, chúng ta hãy thể hiện tư cách môn đệ của mình bằng việc thi hành lời Người truyền dạy. Nghĩa là chúng ta thực thi lòng thương xót trong cuộc sống hằng ngày bằng lòng trắc ẩn, cảm thông, sẻ chia với người khác trong những lúc hoạn nạn khổ đau.

An tôn Nguyễn Văn Lộc

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Bùi Văn Đọc, Võ Đức Minh, Thiên Chúa Cha, Đấng Giàu Lòng Thương Xót, TP HCM, 1998.
  2. Brendan Byrne, The Hospitality of God – A Reading of Luke’s Gospel, The Liturgical Press, Collegeville, Minnesota,
  3. Daniel Harrington, Sacra Pagina Series, Volume 3, The Gospel of Luke, the Liturgical Press, Collegeville, Minnesota, 1999.
  4. David E. Garland, Zondervan Exegetical Commentary on the New Testament, Volume 3 – Luke, Michigan, 2012.
  5. Duncan Macpherson, Scipture Discussion Commentary 8 – Luke, Laurence Bright Series editor, ACTA Foundation, Chicago, Illinois, 1971.
  6. Hoàng Đắc Ánh, Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô Theo Thánh Luca, Tu Viện Mai Khôi, 2011.
  7. Hugues Cousin, Tin Mừng Luca – Chú Giải Mục Vụ, (không rõ dịch giả), Éd. du Centurion,1993.
  8. Joel B. Green, The Gospel of Luke, Cambridge, 1997.
  9. Joseph A. Fitzmyer, The Gospel According to Luke, Yale University Press, 1970.
  10. Kinh Thánh Ấn bản 2011, phần chú thích, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch, Tôn Giáo, 2015.
  11. Luke Timothy Johnson, The Gospel of Luke, The Liturgical Press, Collegeville, Minnesota, 1991.
  12. Magan Mc. Kenna, Blessings And Woes – The Beatitudes And The Sermon On The Plain In The Gospel Of Luke, Claretian Publication, 1995.
  13. Phan Tấn Thành, Magnificat, Học Viện Đa Minh, 2016.
  14. Robert J. Karris, The New Jerome Biblical Commentary: The Gospel according to Luke, Prentice Hall, Englewood Cliffs, New Jersey, 1990.
  15. Vũ Phan Long, Các Bài Tin Mừng Luca Dùng Trong Phụng Vụ, Tôn Giáo, 2012.
  16. Zondervan, Exegetical Commentary on the New Testament – Luke, Clinton E. Arnold General Editor, Michigan,

[1] Có 613 điều răn trong Do-thái giáo, trong đó có 248 điều khuyên làm và 365 điều cấm.

[2] Xc. Kinh Thánh Ấn bản 2011, phần chú thích, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch, Tôn Giáo, 2015, tr.2313.

[3] Daniel j. Harrington, Gospel of Luke,1991, p.236.

[4] Bùi Văn Đọc, Thiên Chúa Cha – Đấng Giàu Lòng Thương Xót, NXB TP Hồ Chí Minh, 1998, tr.111.

[5] Xc. Hoàng Đắc Ánh, Tin Mừng Theo Thánh Lu-ca, Tu viện Mai Khôi 2011, tr.320.

[6] Xc. Zondervan, Exegetical Commentary on the New Testament – Luke, Clinton E. Arnold, General Editor, Michigan, 2011, p.635.

[7] Xc. Kinh Thánh Ấn bản 2011, phần chú thích, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch, Tôn Giáo, 2015, tr.2332.

[8] Xc. Joel B. Green, The New International Commentary On the New Testament – The Gospel of Luke, Wm. B. Eerdmans Publishing Co, 1997, p.823.

[9] Xc. Kinh Thánh Ấn bản 2011, phần chú thích, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch, Tôn Giáo, 2015, tr.2338.

[10] Xc. Brendan Byrne, The Hospitality of God – A Reading of Luke’s Gospel, The Liturgical Press, 2000, p.183.

[11] Xc. Hoàng Đắc Ánh, Tin Mừng Theo Thánh Luca – Dẫn Vào Và Chú Giải Chúa Nhật Và Đại Lễ, Tu Viện Mai Khôi, 2011, tr.456.

[12] Phan Tấn Thành, Magnificat, Học Viện Đa Minh, 2016, tr.68-69.

[13] Nt., tr.27.

[14] Vatican II, LG, số 65.

[15] Vatican II, GS, số 17.

[16] Vatican II, GS, số 92.

[17] Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông sắc Dung Mạo Lòng Chúa Thương Xót – “Miseridordiae Vultus”, số 24.