Thánh Louise de Marillac: một người phụ nữ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn
Fr. Hugo Ricardo Sosa, CM
Thách thức đối với những người con thiêng liêng của Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise, những người thừa kế đặc sủng được tuôn chảy từ Chúa Thánh Thần qua các đấng sáng lập, là phải quay trở lại nguồn mạch linh đạo đó hết lần này đến lần khác, để tái khám phá trong những vị ấy, những con người được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, những phẩm chất của các ngài như những đấng sáng lập.
Fabio Ciardi, trong tác phẩm “Những đấng sáng lập, những con người của Thần Khí: vì một thần học về đặc sủng của đấng sáng lập”, đã thiết lập bốn chiều kích, trong đó bản chất đích thực của một đặc sủng được thể hiện: Thần Khí, Kitô -Tin Mừng, Giáo hội và sự sinh hoa trái. Trong bài viết này, chúng tôi muốn trình bày cách những chiều kích này được thể hiện trong cuộc đời và công việc của Thánh Louise de Marillac, xét đến bối cảnh kỷ niệm hơn 400 năm ngày lễ Hiện xuống (1623-2025).[1]
Chiều kích Thần Khí
Điều đầu tiên Ciardi nhấn mạnh là “đấng sáng lập trước hết là một con người được Chúa nâng lên và thúc đẩy thông qua Thánh Linh của Người.”[2] Có thể xác định ba khoảnh khắc trong chiều kích Thần Khí học này:
a) Những trải nghiệm soi sáng: Đây là những tình huống mà đấng sáng lập được Thánh Thần của Chúa đào tạo và dẫn dắt. Trong cuộc đời của Thánh Louise, chúng ta có thể tìm thấy một trong những trải nghiệm này vào ngày 4 tháng 6 năm 1623, ngày Lễ Ngũ Tuần.
Bà làm chứng trong các bút tích của mình rằng, vào ngày đó, tinh thần của bà được soi sáng và bà nhận được sự an ủi và sức mạnh to lớn để ở bên cạnh chồng mình; bà cũng mở lòng mình đón nhận ân sủng chờ đợi với sự tin tưởng vào “những lời hứa của Chúa”: để có thể phục vụ người lân cận của mình trong cộng đoàn (SW 5-7). Sự kiện này mở ra trong cuộc sống của Thánh Louise một tiến trình phân định, dựa trên sự tự do nội tâm mà bà có thể trải nghiệm, và do đó là một cột mốc quan trọng trong tiến trình trưởng thành về mặt thiêng liêng của bà.
Một kinh nghiệm khai sáng khác, là khi bà được cử đến thăm Hội Bác Ái vào năm 1629. Trong kinh nghiệm đó, bà đã thoát khỏi chính mình và tiếp xúc với thực tế của người nghèo, bà đã chứng kiến các việc phục vụ được cung cấp và những thách thức mà họ phải đối mặt. Bà đã trở thành một nhà tổ chức. Khi quan sát những khó khăn của Hội Bác Ái trong các nhiệm vụ được giao phó, bà bắt đầu mơ ước tối ưu hóa việc phục vụ. Khoảng thời gian cống hiến quảng đại này cho việc phục vụ người nghèo đã rèn luyện nơi thánh Louise sự sáng suốt và sáng tạo trong việc tổ chức bác ái.
b) Những kinh nghiệm tiên khởi: Đây là những tình huống mà qua đó Chúa Thánh Thần định hướng tâm trí và trái tim của đấng sáng lập. Chúng cho phép các ngài đọc từ góc nhìn của Chúa những biến cố khó khăn đã hình thành nên tính cách của các ngài, khám phá ra rằng theo cách này, lời của Thánh Phaolô được ứng nghiệm: “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, cho những ai Người đã kêu gọi theo ý định của Người” (Rm 8:28).
Trong cuộc đời của Thánh Louise, những tình huống ngôn sứ bắt đầu từ khi bà chào đời: cha của thánh nữ là một người góa vợ và bà chưa bao giờ biết mặt mẹ mình. Việc học của bà được giao phó cho các Nữ tu dòng Đaminh ở Poissy, nơi bà theo học cho đến khi khoảng 13 tuổi. Khi bà đang trong giai đoạn khó khăn của tuổi mới lớn, cha bà qua đời. Người chú Michael của bà trở thành người giám hộ của bà, người đã đưa bà đến một nhà trọ nơi bà học những điều cần thiết cho cuộc sống gia đình.
Năm 15 tuổi, bà có mong muốn trở thành một nữ tu dòng Capuchin, nhưng vì sức khỏe yếu, vị linh hướng của tu viện đã từ chối yêu cầu của bà, nói một trong những câu nói sẽ mãi khắc sâu trong trái tim của người thiếu nữ trẻ louise: “Con không thể trở thành một nữ tu, vì con không khỏe mạnh và vì Chúa có những kế hoạch khác cho con.” Làm sao một thiếu nữ thiếu tình cảm của mẹ và đã mất cha trong hai năm lại nhận được sự từ chối đau đớn như vậy?
Nhưng trải nghiệm mang tính ngôn sứ của Thánh Louise vẫn chưa kết thúc. Vào ngày 5 tháng 2, bà kết hôn với Antoine Legras và những năm đầu tiên của cuộc hôn nhân của họ rất hạnh phúc. Năm 1617, mọi thứ thay đổi về mặt chính trị đối với gia đình Marillac và năm 1622, Antoine bị bệnh. Thánh Louise tự trách mình và tự hỏi liệu đó có phải là hình phạt, vì chồng không gia nhập đạo hay không. Bà đã có một khoảng thời gian rất tồi tệ trong những năm đó. Bà đau khổ, nghi ngờ về đức tin của mình và có lẽ bị trầm cảm.
Những kinh nghiệm tiên khởi này trong cuộc đời của Thánh Louise là những con đường hướng đến sự hoàn thiện của lòng bác ái, khiến bà trở nên ngoan ngoãn với hành động của Chúa Thánh Thần. Những kinh nghiệm này đã mài giũa sự nhạy cảm của bà đối với một số khía cạnh của con người và Kitô giáo, những khía cạnh này sẽ phát triển thành những yếu tố thiết yếu trong dự án mới của cuộc đời bà.
c) Phát triển những nguồn cảm hứng sáng lập: Bà bắt đầu tạo hình và mang lại sức sống cho một dự án không phải là của riêng bà, mà là sự phát triển của biểu hiện cụ thể về tình yêu của Chúa. Ciardi khẳng định rằng đó là “một quá trình tiến hóa liên tục, luôn được hướng dẫn bởi hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng cũng hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các yếu tố bên ngoài, cho đến khi hình thành đầy đủ, thường được quy định trong quy tắc.”
Trong cuộc đời của Thánh Louise, chiều kích này dần trở nên cụ thể hơn. Trước hết, vào khoảng năm 1630, Chúa quan phòng đã đặt cô Marguerite Naseau vào con đường của bà và Thánh Vinh Sơn, người mà đã tình nguyện giúp đỡ Hội các Bà Bác ái ở Paris. Những người khác cũng theo chân cô Marguerite và Thánh Louise bắt đầu đề xuất với Thánh Vinh Sơn một cộng đoàn mới để phục vụ người nghèo. Vào khoảnh khắc thứ hai, Tu hội Nữ Tử Bác Ái được thành lập vào ngày 29 tháng 11 năm 1633, đêm trước Ngày lễ Thánh Andre. Sau một quá trình dài phân định, Mary, Nicolasse, Jeanne và Michaela đã gặp nhau tại nhà của Thánh Louise và Tu Hội Nữ Tử Bác Ái đã ra đời. Cô Marguerite Nasseau không thể tham gia nhóm, vì cô đã qua đời vài tháng trước đó, một nạn nhân của lòng bác ái anh hùng của cô, khi cô đã cùng nằm chung giường với một người phụ nữ đang mắc bệnh dịch hạch. Với sự ra đời của Tu Hội, Thánh Louise đã trở thành một người mẹ sáng tạo và táo bạo. Với “phương pháp sư phạm của sự dịu dàng”, bà đã đồng hành cùng các nữ tử của mình trong việc phục vụ người nghèo. Sự phân định bắt đầu từ sự soi sáng của Lễ Ngũ Tuần đòi hỏi chiều sâu hơn mỗi ngày, và bà tiến bước trên con đường này, đồng hành và đào tạo nên những Nữ Tử Bác Ái đầu tiên.
Chiều kích Kitô học
Hành động Thần Khí được cụ thể hóa trong chức năng Kitô học và truyền giáo, bởi vì như Thánh Tông đồ đã nói: “Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm 8,26).
Theo cách này, nguồn cảm hứng đến từ Chúa Thánh Thần trình bày cho đấng sáng lập một mầu nhiệm về Chúa Kitô, trong đó chứa đựng một sứ điệp cứu độ. Chiều kích Kitô học này và sứ điệp của nó là một sự kiện mà đấng sáng lập đã trải nghiệm, để người đó không kể lại những gì “người khác đã kể lại cho người đó” mà chia sẻ một kinh nghiệm cá nhân.
Chiều kích kinh nghiệm Kitô học này không ngụ ý một sự sáng tạo tuyệt đối nơi các đấng sáng lập. Vì các ngài đã rút ra từ các nguồn mạch của nền linh đạo thời đại của họ, và ngược lại, những người chiêm nghiệm thời đại của các ngài đã rút ra từ di sản tinh thần Kitô học phong phú của Giáo hội, hiện diện trong Giáo hội từ khi mới thành lập.
Chúa Giêsu Kitô dần dần chiếm vị trí trung tâm trong trải nghiệm thiêng liêng của Thánh Louise. Không phải là Thánh Louise không phải là “kitô hữu” lúc đầu, mà là bà chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các nền linh đạo của thời đại, đặc biệt là Trường phái Trừu tượng. Benito Martínez khi nghiên cứu các tác phẩm của Thánh Louise từ năm 1627 đến năm 1639 đã tuyên bố rằng, trong giai đoạn này “bà chỉ nhắc đến Chúa Giêsu hai lần và Chúa chúng ta một lần, trong khi từ Thiên Chúa xuất hiện hơn hai mươi lần.”[3]Khi bà đi vào linh đạo của thánh Phanxicô de Sales và Thánh Vinh Sơn Phaolô, một linh đạo lấy Chúa Kitô làm trung tâm đã trở nên vững chắc hơn trong bà, dựa trên sự chiêm ngưỡng và trân trọng mầu nhiệm Nhập thể trong mọi khoảnh khắc cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô: “Tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, đã thúc đẩy Thiên Chúa muốn Con của Người trở thành con người, vì niềm vui của Người là ở với con cái loài người, và để bằng cách thích nghi với tình trạng của con người, Người có thể trao cho họ tất cả những chứng từ mà cuộc sống con người của Người chứa đựng rằng Thiên Chúa đã yêu thương họ từ muôn đời” (Đ. 105).
Bà đã phát triển linh đạo lấy Chúa Kitô làm trung tâm của mình trong sự trân trọng của bà đối với mầu nhiệm Thánh Thể. Chúng ta có thể nói rằng, Thánh Louise de Marillac thực sự là một phụ nữ lấy Thánh Thể làm trung tâm. Bí tích Thánh Thể là để bà hiệp thông và gặp gỡ thiêng liêng với Chúa Giêsu nhập thể: “Trong sự hợp nhất tình yêu (của Bí tích Thánh Thể) Thiên Chúa, khi thấy ngài trong chúng ta, đã phục hồi cho chúng ta sự hình ảnh hoàn toàn giống của Người bằng cách thông truyền, không chỉ ân sủng của Người, mà còn của chính Người, Đấng đã áp dụng cho chúng ta một cách hiệu quả công trạng của cuộc sống và cái chết của Người đến nỗi Người khiến chúng ta có khả năng sống trong Người, để Người sống trong chúng ta” (SW 97).
Tinh thần lấy Chúa Kitô làm trung tâm thiêng liêng của Thánh Louise đã duy trì tính tông đồ của bà, đầu tiên là với tư cách là người viếng thăm Hội Bác Ái và sau đó là người mẹ-người cố vấn-người đào tạo của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái; trong cả hai giai đoạn, bà đã khám phá và củng cố ơn gọi của mình là người phục vụ người nghèo. Khi mối liên kết tình yêu của bà với Chúa Kitô lớn lên, đời sống nội tâm của bà trở nên sâu sắc hơn, bà luôn sẵn sàng vun đắp nó và bà đã đồng hành cùng các chị em trong quá trình huyền nhiệm này. Bà đã bày tỏ tinh thần này trong một bức thư gửi cho Sơ Jeanne Delacroix: “Nếu không có đời sống nội tâm, những hành động bên ngoài, ngay cả khi chúng nhằm phục vụ người nghèo, cũng không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa hay mang lại cho chúng ta bất kỳ phần thưởng nào, trừ khi chúng được kết hợp với những hành động của Chúa chúng ta” (C. 722). Tất cả những điều này dẫn ngài đến việc đặt mô hình của Chúa Giêsu Kitô vào trung tâm của đời sống của cộng đoàn mới thành lập và thúc giục các chị em, cùng với Thánh Vinh Sơn, yêu mến tinh thần của cộng đoàn. Ngài không ngần ngại khẳng định rằng “tinh thần của Tu Hội là tinh thần của Chúa chúng ta” (C. 114).
Chúng ta biết rằng mầu nhiệm Chúa Kitô là vô tận, nhưng Thánh Louise, giống như Thánh Vinh Sơn, trình bày cho các môn đệ của mình một chiều kích của mầu nhiệm không thể thấu hiểu này: Chúa Kitô là đấng rao giảng Tin Mừng.[4] Bằng những lời tương tự như lời của Thánh Vinh Sơn, bà viết: “Vậy thì chúng ta sống như đã chết trong Chúa Giêsu Kitô và như vậy, không chống đối Chúa Giêsu, không hành động nào ngoài Chúa Giêsu, không suy nghĩ nào ngoài Chúa Giêsu, tóm lại, chỉ sống cho Chúa Giêsu và cho người lân cận, để trong tình yêu hiệp nhất này, tôi có thể yêu tất cả những gì Chúa Giêsu yêu” (SW 69).
Mặc dù Thánh Louise không trích dẫn rõ ràng một bản văn Tin Mừng nào mà chúng ta có thể suy ra Kitô học của bà, nhưng chúng ta có thể thấy trong thư từ và các bút tích của bà rằng, bà đi theo và bắt chước Chúa Kitô, là Đấng rao giảng Tin Mừng. Và vì vậy, cuộc sống của bà “trở thành một “lời chú giải sống động” và “sự hiện thực hóa của nó”, theo lời của Ciardi.
Chiều kích Giáo hội
Ciardi khẳng định “nguồn cảm hứng cơ bản, ngoài khía cạnh Kitô học và truyền giáo, còn chứa đựng nhận thức đặc biệt về tình trạng xã hội và giáo hội. Nó mang đến cho đấng sáng lập khả năng đọc các dấu chỉ của thời đại và diễn giải chúng theo ánh sáng của kế hoạch của Chúa.”
Thánh Louise de Marillac cảm thấy mình là con gái của Giáo hội và bà đã biến các nữ tử của mình thành một phần của cùng trải nghiệm đó, được thành lập và đào tạo để chăm sóc người nghèo, “những thành viên được ưu tiên và là người tiếp nhận hành động của Giáo hội.”[5] Mối quan tâm của bà, giống như Thánh Vinh Sơn, là làm rõ rằng, các Nữ Tử Bác Ái không phải là tu sĩ. Bằng cách này, ngài đề xuất cho các nữ tử của mình một cách sống thánh hiến mới, trong đó tông đồ phục vụ người nghèo là trung tâm. Khi ngài nhấn mạnh rằng “họ sẽ không sống đời sống của nữ tu” là để tránh sự khép kín và tìm cách đề xuất việc phục vụ bác ái như một phương tiện để hoàn thiện, vì ngài nói với họ: “các Nữ tử Bác ái có nghĩa vụ phải làm việc để hoàn thiện hơn chính các tu sĩ” (C. 739).
Một sự kiện trong cuộc đời của Thánh Louise có lẽ có thể làm nảy sinh nghi ngờ về sự vâng phục của bà đối với Giáo hội, nhưng chúng ta thấy trong tập này sự tìm kiếm để đáp lại ý muốn của Chúa theo thực tế giáo hội của thời đại và do đó để hỗ trợ giáo hội cho nền tảng của bà. Chúng ta đang nói đến sự phụ thuộc của các Nữ Tử Bác Ái vào Bề trên Tổng quyền của Tu Hội Truyền Giáo. Thánh Louise thấy rằng những nỗ lực thành lập các nhóm tu hội đời đã kết thúc như các hội dòng tu sĩ dưới sự bảo vệ của các giám mục địa phương, và vì vậy, bà đã tìm cách, thậm chí trái với mong muốn của Thánh Vinh Sơn, để đặt tu hội mới thành lập dưới sự chỉ đạo của Bề trên Tổng quyền. Trong một trong những lá thư gửi cho Thánh Vinh Sơn, bà bày tỏ sự chắc chắn rằng Tu Hội phải trung thành với “hướng đi mà Chúa đã ban cho”, bà nói rằng: “Nhân danh Chúa, thưa Cha, xin đừng để bất cứ điều gì nhỏ nhặt nhất len lỏi vào có thể khiến Tu Hội đi chệch khỏi hướng đi mà Chúa đã ban cho; xin hãy chắc chắn rằng khi đó Tu Hội sẽ không còn như hiện tại nữa và những người bệnh nghèo sẽ không còn được giúp đỡ; và con tin rằng khi đó ý muốn của Chúa đối với chúng ta sẽ không còn được thực hiện nữa” (CCD III, 115).
Một điều mới lạ khác trong cuộc sống của Thánh Louise và của Tu hội mới thành lập là hình thức và mục đích của việc tuyên khấn. Trung thành với dòng chảy linh đạo của thời đại mình, “phong trào sùng đạo”, bà nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tuyên khấn, nhưng đồng thời bà cũng nhận thức rằng hành động này không nên được hiểu là một hành động mang tính cách tu sĩ. Theo cách này, bà thực hiện một thực hành tu trì, nhưng đặt mục đích của cộng đoàn lên hàng đầu. Công thức nhấn mạnh vào mục đích: “Cống hiến bản thân mình trong suốt năm nay để phục vụ về thể xác và tinh thần cho những người nghèo đau yếu.” Vào ngày 25 tháng 3 năm 1642 (chín năm sau khi Tu hội được thành lập), Thánh Louise de Marillac và bốn chị em đã cam kết trọn đời. Những lời khấn này chỉ được hiểu từ thời điểm thánh hiến trong phép rửa tội; bà ủng hộ thực hành này và tuân theo nó (Delgado, C., op. cit., 122).
Trong những ngày đầu của Tu Hội, đã có một thực hành tuyên khấn khác nhau, một số tuyên khấn trong một năm, những người khác tuyên khấn trọn đời. Quy tắc năm 1655 không nói gì về việc thực hành này, và Quy chế năm 1718 coi việc thực hành lời khấn hằng năm là bình thường. Đối với Thánh Louise, lời khấn dựa trên “cái chết của Chúa Kitô trên thập tự giá và lời hứa của Người; chúng thực hành ý muốn của mình cho Chúa và cho phép một người bước vào một cuộc đối thoại rất thân mật với Chúa và chia sẻ mọi điều tốt lành của Người.” (Delgado, C., op. cit., 119).
Tu hội mới thành lập đã đưa ra những phản hồi đầy đủ cho những nhu cầu cấp thiết của Giáo hội và xã hội vào thế kỷ 17 của Pháp. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Giáo hội là chăm sóc “những thành viên mong manh nhất của Giáo hội”, “những tâm hồn được cứu chuộc bằng máu của Con Thiên Chúa”, “các thành viên của Chúa Giêsu”, vì vậy Thánh Louise đã trở thành “người điều hành” của sứ mệnh này, khai thác sự giàu có về mặt tinh thần của truyền thống Giáo hội và đưa tu hội mới thành lập của mình vào việc phục vụ Giáo hội, bởi vì một Nữ tử Bác ái là con gái của Giáo hội gấp đôi: thông qua phép rửa tội và sự tận tụy phục vụ người nghèo. (Cf. Delgado, C., op. cit., 124)
Chiều kích phát sinh hoa trái
Ciardi khẳng định rằng “đặc điểm đặc trưng nhất của đặc sủng của đấng sáng lập là yếu tố sinh sôi nảy nở, giúp một người có khả năng truyền tải cho người khác nội dung của nguồn cảm hứng cơ bản”. Quá trình nhân bản và tinh thần của Thánh Louise đã đào tạo nên bà trở thành một “người mẹ sáng tạo và táo bạo”. Và từ sự sáng tạo và táo bạo này, bà đã có thể truyền đạt cho các chị em đầu tiên món quà đã nhận được, biến họ thành những môn đệ bị thu hút bởi dự án của một tổ chức bác ái có tổ chức, và đến lượt mình, để đạt được điều đó, thúc đẩy việc đào tạo hiệu quả để phục vụ “các thành viên của Chúa Giêsu” như họ nên làm.
Thánh Louise đã trở thành một người mẹ đầy năng lượng và táo bạo như thế nào? Bằng cách kết hợp trong chính mình những sự giàu có của một con người sâu sắc và đồng thời mở lòng đón nhận sự siêu việt (với Chúa Thánh Thần). Và theo cách này, bà đã trở thành một người phụ nữ kiên cường. Đã trải qua những trải nghiệm đau thương (không biết mẹ mình, mất cha khi còn là thiếu niên, không được chấp nhận vào đời sống tu trì, bệnh tật và cái chết của chồng), bà đã có thể tiến về phía trước và trở thành một người phụ nữ đồng cảm và do đó đã mang lại nhiều thành quả trong việc thành lập Tu hội Nữ tử Bác ái và trong việc phục vụ người nghèo.
Vì thánh Louise de Marillac là một người mẹ đầy năng lượng, bà vẫn là một hình mẫu cho đến ngày nay. Chúng ta có thể trực tiếp nhìn thấy thành quả của sự đầy năng lượng của bà trong cuộc sống của mười bốn nghìn Nữ tử Bác ái trên khắp thế giới. Và trong sức hấp dẫn của cuộc sống và lòng bác ái táo bạo của bà đối với tất cả những người Kitô hữu, những người tìm cách đáp lại Chúa Kitô bằng cách phục vụ Người trong những người nghèo.
Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM chuyển ngữ từ //cmglobal.org/
[1] Bài này được đăng trên tạp chí Anales de la Congregación de la Misión y de las Hijas de la Caridad de España, 2022, Vol. 130, p. 397-404. Cùng với các tài liệu tham khảo: CIARDI, Fabio, Founders, Men of the Spirit: for a Theology of the Founder’s Charism, Madrid, Paulines, 1983. Coste, Pedro, Obras completas de San Vicente de Paúl, Salamanca, CEME, 1980. De Marillac, S. Luisa, Correspondencias y Escritos, Salamanca, CEME, 1985. Delgado, Corpus, Luisa de Marillac y la Iglesia, CEME, Salamanca, 1981. MEZZADRI, Luigi, San Vicente de Paúl: el Santo de la Caridad, Salamanca, CEME, 2012. Martínez, Benito, La Señorita Le Gras y Santa Luisa de Marillac, CEME, Salamanca, 1991.
[2] Fabio, CIARDI, Những đấng sáng lập, những con người của Thần Khí: cho một thần học về đặc sủng của đấng sáng lập. Madrid, Paulines, 1983, 352-357).
[3] Martínez, B., La Señorita Le Gras y Santa Luisa de Marillac, CEME, Salamanca, 1991, tr. 155).
[4] Với tính từ “đấng rao giảng”, chúng ta muốn bao hàm Kitô học truyền giáo hàm ý chiều kích phục vụ. Nếu chúng ta tránh sử dụng các tính từ “người truyền giáo và người phục vụ” cùng nhau, thì không phải vì chúng ta quên tính từ sau, mà chỉ đơn giản là vì chúng ta hiểu rằng, truyền giáo hàm ý sự phục vụ của Tin Mừng, điều này chữa lành, giải thoát, soi sáng và công bố (x. Lc 4:18-19).
[5] Delgado, C., Luisa de Marillac y la Iglesia, CEME, Salamanca, 1981, tr. 109.