Các Lời Khấn Của Nữ Tử Bác Ái
Fernando Quintano, C.M.
Giới thiệu
Các Đấng Đồng Sáng Lập của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái – Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise, đã nhận thức về đặc tính mới mẻ trong cách thức bước theo Chúa Kitô và về thực tế rằng Thiên Chúa là tác giả của điều ấy.
Trong tuần đầu tiên của tháng Vinh Sơn dành cho các Đại Diện Tỉnh của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái, những đặc điểm quan trọng nhất, đặc trưng cho kế hoạch mới, của lối sống này đã được trình bày: căn tính, linh đạo và sự đóng góp của mỗi Đấng Sáng Lập vào khuôn mẫu đặc biệt này của Tu Hội.
Một đặc điểm khác, không còn nghi ngờ gì nữa, tiêu biểu về căn tính và nguồn gốc của Tu Hội, đó là cách hiểu biết và lối sống cụ thể theo các Lời Khuyên Phúc Âm. Đây là lý do tại sao trong bài trình bày này, chúng ta sẽ nói về những lời khấn, mà qua đó các Nữ Tử Bác Ái sống đời sống của họ trong sự khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, như một lời xác nhận về sự dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa và sẵn sàng hơn cho mục tiêu của Tu Hội: phục vụ Đức Kitô nơi người nghèo.[i]
Tôi sẽ trình bày và triển khai chủ đề này theo cách thức sau: trước hết, chúng ta sẽ suy nghĩ về ý nghĩa của nó, trong Giáo Hội cách khái quát, để sống, qua các lời khấn, những gì mà chúng ta gọi là Lời Khuyên Phúc Âm. Thứ hai, chúng ta sẽ nói về các lời khấn của Tu Hội theo các Đấng Sáng Lập và Hiến Pháp hiện tại. Sau đó, chúng ta sẽ làm rõ sự khác biệt giữa lời khấn dòng và lời khấn của các Nữ Tử Bác Ái, mặc dù một vài yếu tố là sự diễn đạt về tính triệt để Tin Mừng và những điều khác là yêu cầu thiêng liêng khác. Cuối cùng, chúng ta sẽ liệt kê một số khía cạnh liên quan đến từng lời khấn, cần được nhấn mạnh liên quan đến đời sống thực tế của Tu Hội.
1. Các lời khấn và những Lời Khuyên Phúc Âm
Trong thần học linh đạo Kitô giáo, chúng ta thường hiểu khái quát từ “khấn” có nghĩa là một người tự cam kết bản thân mình trước Thiên Chúa, một cách rất nghiêm túc, để thực hiện những gì đã được hứa bởi lời khấn này. Nó giống như một giao ước giữa Thiên Chúa và người làm lời khấn, một giao ước đối với những gì mà một người trung thành, bởi chính lời nói của người đó.
Lời khấn là một hành động của nhân đức thờ phượng. Nhờ nhân đức này, thụ tạo ý thức có khuynh hướng tôn vinh và thờ phượng Thiên Chúa, thừa nhận Người như là thầy và là Chúa của mọi thụ tạo. Thánh Vinh Sơn nói rằng, Chúa Giêsu Kitô sở hữu cả hai nhân đức tuyệt vời, đó là: sự tôn kính đối với Chúa Cha và lòng bác ái đối với nhân loại.[ii] Nhờ nhân đức này, Chúa Kitô dành cho Chúa Cha vinh quang, danh dự và ngợi khen, tìm kiếm trong mọi điều để hoàn thành ý muốn của Chúa Cha và để hài lòng Người.
Trong lãnh vực và ngôn ngữ của đời sống thánh hiến, các lời khấn là một cam kết, mà qua đó một người sống theo những Lời Khuyên Phúc Âm về sự khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục. Cũng có thể có những cách khác để sống chúng, ví dụ như thông qua những lời hứa. Một số hội dòng hay tu hội thì thêm một lời khấn thứ tư cụ thể hơn, đối với các Nữ Tử Bác Ái, đó là lời khấn Phục Vụ Người Nghèo.
Khấn để sống các Lời Khuyên Phúc Âm diễn đạt sự dâng hiến hoàn toàn bản thân cho Thiên Chúa, đồng thời ước muốn vượt qua những trở ngại và cản trở có thể xảy ra của cam kết này, như việc sử dụng không phù hợp quyền lực, tính dục và tiền bạc trong việc bước theo Chúa Kitô, trong ba chiều kích này của cuộc đời Ngài. Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến (Vita Consecrata) trình bày những Lời Khuyên Phúc Âm như là một “trị liệu thiêng liêng,” cho nhân loại[iii] khi đối mặt với sự tôn thờ ngẫu tượng của bản năng tính dục,[iv] chủ nghĩa duy vật, thèm khát sở hữu,[v] và sử dụng lệch lạc quyền tự do.[vi]
Chính Đức Kitô đã đau khổ với ba thử thách cản trở đối với sứ vụ của Ngài, như chúng ta thấy việc Ngài bị cám dỗ trong sa mạc.[vii] Thánh Gioan liệt kê “như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian.”[viii] Tất cả điều này thì trái ngược với tình yêu của Chúa Cha. Thánh Vinh Sơn đã hỏi, “một chị Nữ Tử Bác Ái nói gì về người làm lời khấn nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời? Chị ấy nói rằng, chị ấy từ bỏ thế gian, rằng chị ấy khinh bỉ tất cả những lời hứa đẹp đẽ của nó và tự dâng hiến bản thân cho Thiên Chúa. Đó là những gì một người làm lời khấn, và đó là cách một người nên hành động để tuân theo cách trung thành.”[ix]
Lời khấn thể hiện một cam kết và một lòng nhiệt thành thiêng liêng. Thông qua chúng, một người chiếm lấy, không chỉ tính chắc chắn, điều tạo nên đối tượng của các lời khấn, nhưng còn cả nhân đức phù hợp và Lời Khuyên Phúc Âm. Điều này là vô nghĩa nếu lời khấn không đạt được những đòi hỏi của nhân đức. Chẳng hạn, thông qua lời khấn khó nghèo, các Nữ Tử “cam kết bản thân để phụ thuộc hoàn toàn vào việc sử dụng và định đoạt của cải vật chất của Tu Hội, cũng như trong việc sử dụng của cải cá nhân của họ.”[x]
Cách thế cụ thể hóa tính chất này của những lời khấn, không giải thoát các chị em khỏi những yêu cầu âm thầm trong việc theo Đức Kitô nghèo khó và cuộc sống của họ như là đầy tớ của người nghèo. Nếu các Nữ Tử Bác Ái hiểu và sống nghèo theo nghĩa đen, họ sẽ suy yếu và giảm bớt các đòi hỏi mang tính Tin Mừng, điều mà đã được thánh Vinh Sơn đòi hỏi: “thưa các chị em, chị em đã chọn Ngài kể từ khi chị em vào Tu Hội. Chị em đã cam kết với Ngài bằng lời nói của chị em và như Ngài đã dẫn đầu trong đời sống khó nghèo, chị em phải bắt chước Ngài trong sự kính trọng điều ấy.”[xi] “Tất cả các chị em là những thành viên của Tu Hội và chưa làm lời khấn bị trói buộc để sống khó nghèo. Đối với những người đã làm lời khấn, điều đó không cần phải nói đến nữa.”[xii]
Đó là tại sao khi Hiến Pháp trình bày lời khấn của các Nữ Tử Bác Ái, trong phần thêm vào để cụ thể hóa các lời khấn, họ đảm nhiệm tính thần học và thiêng liêng của các nhân đức và những Lời Khuyên Phúc Âm phù hợp.
Không thể có cách nào khác, đối với các Nữ Tử Bác Ái, trong việc tuyên bố và lặp lại lại các lời khấn, xác nhận sự tận hiến của họ đối với Thiên Chúa, điều bao hàm trong việc bước theo cách lối Tin Mừng của Chúa Kitô cách triệt để, trong việc hoàn toàn dâng hiến bản thân cho Thiên Chúa để phục vụ người nghèo. Khi tái khẳng định sự xác nhận này và để thực hiện tốt hơn mục tiêu này, họ chấp nhận những Lời Khuyên Phúc Âm về sự khiết tịnh, nghèo khó, vâng phục và tất cả các đòi hỏi liên quan đến những lời khấn này.
2. Các lời khấn trong Tu Hội
Các lời khấn được giới thiệu chín năm sau khi thành lập Tu Hội. Tuy nhiên trước đó, họ là những Nữ Tử Bác Ái đích thực. Khi họ gia nhập vào Tu Hội, họ bắt đầu sống nghèo khổ, khiết tịnh và vâng phục.
Trước khi việc thực hành lời khấn được giới thiệu, thánh Vinh Sơn đã thường nói với các chị em về sự cần thiết phải thực hành các nhân đức: khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục. Vào thời điểm đó, các lời khấn chưa phải là yếu tố thiết yếu của Tu Hội, nhưng việc thực hành ba nhân đức này thì thiết yếu hơn. Nói về khó nghèo, thánh Vinh Sơn nói với các chị em: “một số chị em đã làm lời khấn về khó nghèo và những người còn lại quyết tâm làm như vậy. Khi chị em gia nhập vào trong Tu Hội, tất cả chị em đã quyết tâm chấp nhận khó nghèo, nếu không chị em đã không được thừa nhận.”[xiii]
Trong buổi Đàm Luận ngày 5 tháng 7 năm 1640, thánh Vinh Sơn đã nói với các chị em: “các Nữ Tử Bác Ái, … mặc dù họ chưa khấn để duy trì chúng, nhưng đừng dừng lại ở một bậc hoàn hảo, nếu họ là Nữ Tử Bác Ái đích thực.”[xiv] Trong cuộc Đàm Luận hai tuần sau đó, ngài đã truyền đạt với nhiều cảm xúc rằng, ngài đã bị đánh động như thế nào bởi công thức lời khấn của các nữ tu Dòng Bệnh Viện ở Ý, người đã đảm nhận lời khấn khó nghèo, khiết tịnh, vâng lời và phục vụ cho các vị chúa của họ, là những người nghèo. Sau đó, các chị em bày tỏ rằng, họ được cho phép làm tương tự như thế. Thừa nhận khả năng này, thánh Vinh Sơn đã nói rất rõ rằng, nếu một ngày nào đó họ thực hiện lời khấn, họ vẫn không trở thành nữ tu.[xv]
Vào ngày 25 tháng 3 năm 1642, thánh Louise, cùng với bốn chị em, đã tuyên khấn lần đầu vì “lối sống.” Sau đó, các chị em khác cũng làm như vậy, nhưng một cách tự do: một số tuyên khấn, một số thì không; đối với một số chị, chúng là khấn tạm, đối với những chị khác, đó là khấn vĩnh viễn, những khác biệt này không tạo ra bất kỳ trở ngại hoặc cảm thức bất bình đẳng nào trong cộng đoàn. Năm 1648, lời khấn bắt đầu được tổ chức hàng năm và các chị em cũng xin phép thánh Vinh Sơn cho những người tuyên khấn lần đầu, cũng như những người khác lặp lại lời khấn.
Về thời gian, việc thực hành của việc làm lời khấn và tuyên khấn lần đầu xảy ra trong vòng năm đến bảy năm sau khi bắt đầu ơn gọi. Sau năm 1801, yêu cầu này là không thể thiếu cho việc duy trì trong Tu Hội.
Mối quan tâm và nỗ lực to lớn của các Đấng Sáng Lập đã được khắc sâu nơi các chị em rằng, ngay cả khi họ tuyên khấn họ sẽ không là nữ tu, nhưng họ sẽ tiếp tục là “đời.” Bởi vì, các Đấng Sáng Lập muốn bảo vệ tính lưu động của việc phục vụ người nghèo, là nơi người nghèo được tìm thấy.
Sợ hãi và nguy hiểm đã tồn tại trong thực tế của việc làm lời khấn, họ có thể được coi như là nữ tu, điều đó sẽ dẫn đến hậu quả là việc sẽ phải ở trong nội cấm: “nếu ngài (đức giám mục) hỏi chị rằng, chị em có phải nữ tu không? Thì chị em hãy thưa nói với ngài rằng, chúng con không phải là nữ tu… vì nếu chị em nhận mình là nữ tu, chị em sẽ phải ở trong nội cấm của tu viện và do đó, cũng sẽ phải nói lời tạm biệt với việc phục vụ người nghèo. Nhưng hãy nói với ngài rằng, chị em là những Nữ Tử Bác Ái nghèo, những người đã dâng mình cho Chúa để phục vụ những người nghèo khổ. Nếu ngài hỏi chị em: chị em có làm lời khấn không? Nói với ngài rằng: ‘ồ, không, thưa Đức Cha, chúng con dâng mình cho Chúa để sống trong khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, một số người trong chúng con thì vĩnh viễn và một số khác thì một năm.”[xvi]
Hiến Pháp hiện tại truyền tải một cách trung thành kế hoạch của các Đấng Sáng Lập Tu Hội, cũng như cách thế mà các ngài đã diễn đạt về lời khấn.
Hiện tại, Tu Hội được chuẩn nhận trong Giáo Hội như là một Hiệp Hội Đời Sống Tông Đồ. Những Hiệp Hội này không có lời khấn dòng. Họ chấp nhận các Lời Khuyên Phúc Âm bằng một ràng buộc đặc biệt như được định nghĩa trong Hiến Pháp.[xvii] Hiến Pháp của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái nói rằng các lời khấn “không phải lời khấn dòng, hằng năm và luôn luôn có thể lặp lại.”[xviii] Giáo Hội, trong việc phê chuẩn Hiến Pháp hiện tại, bảo đảm rằng, Tu Hội, duy trì sự trung thành với các Đấng Sáng Lập thông qua cách thế trong những gì lời khấn được hiểu và diễn dạt ngày nay.
Không phải “lời khấn dòng”
Sự diễn đạt không phải “lời khấn dòng”, đầu tiên, có nghĩa rằng lời khấn của các Nữ Tử Bác Ái khác với lời khấn của các tu sĩ. Sự khác biệt cơ bản là đời sống tu dòng đảm nhận các Lời Khuyên Phúc Âm thông qua lời khấn công và bằng hành động này, một người trở thành một tu sĩ hay cụ thể với các dòng nữ là nữ tu, trong khi ấy, đối với các Nữ Tử Bác Ái, đó là sự dâng hiến cuộc sống của một người cho Chúa, trong việc phục vụ người nghèo. Đó là lý do tại sao một người được coi là Nữ Tử Bác Ái tại thời điểm gia nhập vào tập viện.
Các lời khấn (không phải lời khấn công, cũng không hoàn toàn riêng tư, nhưng đặc biệt đối với tu hội) được khẳng định bằng việc dâng trọn bản thân cho Thiên Chúa, để phục vụ người nghèo tốt hơn. Điểm cốt lõi trong việc thánh hiến nữ tu là tuyên khấn, trong khi, với các Nữ Tử Bác Ái, đó là lòng bác ái được thể hiện thông qua việc phục vụ người nghèo về thể xác và tinh thần. Thánh Vinh Sơn nói với các chị em: “… chị em dành cả cuộc đời mình cho việc thực hành đức bác ái và do đó, chị em dành tặng nó cho Chúa.”[xix] “Chị em đã tiêu hao đời mình trong cùng một lý do mà Chúa Giêsu Kitô đã ban tặng chính bản thân Ngài – vì đức ái, cho Thiên Chúa và vì người nghèo!”[xx]
Người ta thường nói rằng, định nghĩa của từ “không phải lời khấn dòng”, vì chúng được tuyên khấn trong Tu Hội, thì mang một âm điệu tiêu cực và không giải thích rõ những lời khấn đó là gì. Đối với bản thân tôi, chúng được giải thích rất rõ ràng trong các mục của Hiến Pháp và trong Hướng Dẫn Về Những Lời Khấn dành cho họ.[xxi] Hãy cố gắng khẳng định lại giá trị của những lời khấn ngày nay, đừng khiến chúng trở thành “khấn dòng” nhưng cho phép chúng được hiểu và sống theo Hiến Pháp.
Lời khấn “hằng năm và luôn luôn có thể lập lại”
Các Đấng Sáng Lập đã do dự giữa tính tạm thời và tính vĩnh viễn của lời khấn trong Tu Hội. Cuối cùng, các ngài đã quyết định về tính tạm thời, qua việc các lời khấn được lặp lại hàng năm vào ngày lễ Truyền Tin.
Yếu tố hàng năm và có thể lặp lại không làm giảm tầm quan trọng của lời khấn. Tạm thời thì không có nghĩa là có tính nhất thời, nó là một năng lực thiêng liêng, một động lực cho việc đào sâu hơn ơn gọi cách tiệm tiến. “Làm mới” lại lời khấn hàng năm là một lời “Xin Vâng” để tiếp tục trong ơn gọi. Lời khấn khẳng định sự tận hiến dành cho Thiên Chúa một cách có chủ ý, là một lựa chọn cho tất cả cuộc sống của một người và vì điều này những lời khấn “luôn được lặp lại.”
Theo nghĩa này, sự lặp lại thường niên và sự làm lại lời khấn là những diễn đạt duy nhất mật thiết. Trước sự có thể lặp lại hàng năm của lời khấn, thánh Vinh Sơn khẳng định: “tuy nhiên, không làm lời khấn thì tốt hơn là làm như thế với ý định để bảo đảm việc“tháo lời khấn” bất cứ khi nào chị em muốn.”[xxii]
Các lời khấn phải được hiểu và sống trong ánh sáng của “lời khấn đặc biệt”
Một khía cạnh cơ bản khác trong các lời khấn của các Nữ Tử Bác Ái là sự “sống còn” của Tu Hội tạo thành đối tượng của lời khấn thứ tư, “lời khấn đặc biệt” – mối ràng buộc thánh.[xxiii] Đây là điều đặc biệt nhất của Tu Hội, liên quan trực tiếp nhất đến căn tính và mục đích của Tu Hội trong Giáo Hội. Ba lời khấn còn lại phải được hiểu và sống trong sự quy chiếu đến lời khấn thứ tư này.
Công thức được sử dụng để diễn tả lời khấn cho phép thấy rõ điều đó:
Để đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô, Đấng mời gọi tôi đi theo Ngài và làm chứng cho đức ái của Ngài dành cho người nghèo, tôi là… lặp lại những lời hứa khi lãnh nhận bí tích rửa tội và khấn với Chúa trong một năm đức khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục … và cống hiến bản thân tôi cho sự phục vụ người nghèo về tinh thần và thể chất.[xxiv]
Việc phục vụ Chúa Kitô trong người nghèo là một hành động của tình yêu – cả tình yêu cảm tính và tình yêu thiết thực[xxv] – điều hướng dẫn đời sống của họ.
Sự thực hành các Lời Khuyên Phúc Âm… có một tính cách đặc biệt từ việc phục này.[xxvi] Việc thực hành các Lời Khuyên Phúc Âm luôn được liên kết với việc phục vụ người nghèo trong mọi lúc.[xxvii] Tu Hội là một Hiệp Hội Đời Sống Tông Đồ và những điều này được xác định, trên hết, bởi tính cách tông đồ; và điều đó nơi Nữ Tử Bác Ái là việc phục vụ người nghèo về thể lý và tinh thần. Điểm cuối này là đối tượng của một “lời khấn đặc biệt” và để hoàn thành nó tốt hơn, họ tuyên khấn thực hành ba lời khấn khác.[xxviii] Hiến Pháp điều 2.1 nhấn mạnh: “việc phục vụ dành cho họ thể hiện sự tận hiến của họ đối với Thiên Chúa trong Tu Hội và cho chính lời khấn một ý nghĩa đầy đủ.”
3. Sự khác biệt giữa lời khấn dòng và lời khấn của Nữ Tử Bác Ái
Bộ Giáo Luật xác định những gì cấu thành nên sự tận hiến đặc biệt cho các dòng tu. Đó là việc tuyên khấn các Lời Khuyên Phúc Âm về khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục bằng lời khấn công.[xxix]
Các Nữ Tử Bác Ái không phải nữ tu, họ không làm lời khấn về các Lời Khuyên Phúc Âm, do đó, họ không tận hiến cho Thiên Chúa theo cách thức của nữ tu. Những lời của thánh Vinh Sơn rất rõ ràng về chủ đề này: “họ sẽ nhớ rằng họ (các Nữ Tử Bác Ái) không thuộc về một dòng tu, vì tình trạng này không phù hợp với những nghĩa vụ ơn gọi của họ… không có hình thức khác của việc tuyên khấn được sử dụng để đảm bảo ơn gọi của họ, ngoài sự tin tưởng liên tục mà họ có nơi Chúa Quan Phòng và sự dâng hiến mà họ dành cho Thiên Chúa về tất cả những gì họ đang có và về sự phục vụ của họ đối với người nghèo.” Các Nữ Tử Bác Ái không tuyên khấn.[xxx] Theo Giáo Luật, thánh hiến nữ tu thì được làm bởi việc tuyên khấn, các Nữ Tử Bác Ái không phải nữ tu hoặc không được thánh hiến theo khía cạnh này của bộ Giáo Luật.
Tuy nhiên, từ “thánh hiến”, như được sử dụng trong Hiến Pháp để áp dụng cho các Nữ Tử Bác Ái, diễn đạt “sự dâng hiến bản thân một người cho Thiên Chúa cách hoàn toàn”; “sự cho đi bản thân hoàn toàn”; “sự dâng hiến đời sống của một người.” Theo nghĩa này, các Nữ Tử Bác Ái thì được thánh hiến cách thực sự và chân thật. Nếu sự tận hiến đặc biệt của đời sống nữ tu là rập khuôn bản thân với Chúa Kitô trong sạch, nghèo khó và vâng phục, thì sự tận hiến của các Nữ Tử Bác Ái cũng là một rập khuôn cho Chúa Kitô, nhưng qua ba chiều kích khác của cuộc đời sống của Ngài, điều không kém phần thiết yếu: Đấng tôn thờ Chúa Cha, Người Phục Vụ và Nhà Truyền Giáo.
Tu Hội là một phần của đời sống thánh hiến, nhưng không phải đời sống tu dòng. Đó là một Hiệp Hội Đời Sống Tông Đồ.[xxxi] Những hiệp hội này giống với dòng tu bởi vì họ cũng cố gắng hoàn thiện đức ái, nói tóm lại là sự thánh thiện Tin Mừng, nhưng theo một con đường khác với đời sống dòng tu. Hiệp hội đời sống tông đồ không làm lời khấn công, đó là lý do tại sao lời khấn của họ không phải là lời khấn dòng hay khấn công. Họ cố gắng cho sự hoàn thiện thông qua việc tuân thủ Hiến Pháp của họ và nắm lấy các Lời Khuyên Phúc Âm theo một cách thức cụ thể, được xác định bởi cùng Hiến Pháp này.[xxxii]
Thánh Vinh Sơn cũng đã sử dụng từ ngữ “thánh hiến,” đối lập với từ “tuyên khấn,” trong việc áp dụng nó cho các Nữ Tử Bác Ái, trái ngược hoàn toàn với các thuật ngữ thánh hiến và sự thánh hiến nữ tu: “đó là một ơn gọi nơi một người làm một lời tuyên khấn để yêu mến Chúa và tha nhân.”[xxxiii]
4. Các lời khấn là một diễn đạt của một nhu cầu thiêng liêng lớn hơn và tính triệt để Tin Mừng
Mặc dù sự tận hiến của các Nữ Tử Bác Ái khác hơn với dòng tu, nhưng cả hai đều mang cùng những yêu cầu và tính triệt để Tin Mừng. Trong bản văn của thánh Vinh Sơn mà tôi vừa trích dẫn, ngài nói rằng Nữ Tử Bác Ái không làm lời khấn dòng và không phải là một phần của đời sống tu dòng, vì thế ngài tiếp tục: “các Nữ Tử Bác Ái nên có nhiều nhân đức hơn so với khi họ làm lời tuyên khấn của họ trong một dòng tu.”[xxxiv]
Khi bắt đầu buổi Đàm Luận, sau khi hỏi các chị em có phản đối hay ý kiến gì không, nếu có ai đó đã muốn trở thành nữ tu (vào thời điểm đó, việc là nữ tu có nghĩa là bị bó buộc ở trong tu viện, và vì lý do này, không thể phục vụ người nghèo), thánh Vinh Sơn nói với họ: “đó là tại sao nó là điều quan trọng nhất, là chị em nên nhân đức hơn các nữ tu. Và nếu có một mức độ hoàn hảo cho những người sống trong một dòng tu, các Nữ Tử Bác Ái cần cả hai.”[xxxv] Đằng sau những lời này của Đấng Sáng Lập đã hàm ý rằng, một số chị em cho rằng, bậc sống của nữ tu trong tu viện thì hoàn hảo hơn “lối sống bác ái” của các Nữ Tử Bác Ái.
Thánh Vinh Sơn muốn thuyết phục họ rằng, không phải như vậy và dù ngài rất ngưỡng mộ các nữ tu. Ngài đã nói với các Nữ Tử Bác Ái rằng, mặc dù họ không phải là nữ tu, nhưng họ “không dừng lại ở trong bậc sống hoàn hảo, nếu họ là những Nữ Tử Bác Ái thực sự.”[xxxvi] Và để củng cố niềm tin này, ngài nói thêm rằng “tôi chưa bao giờ thấy một bậc sống hoàn hảo như vậy.”[xxxvii]
Những lời này của thánh Vinh Sơn chứng minh rằng, sự tận hiến của các Nữ Tử Bác Ái kèm theo nó một sự triệt để tận căn: “từ nay, để là một Nữ Tử Bác Ái thực sự, thì cần thiết phải từ bỏ tất cả: cha mẹ và hy vọng của việc có một gia đình. Con Thiên Chúa dạy chúng ta điều này trong Tin Mừng. Cũng cần phải từ bỏ chính mình … để là một Nữ Tử Bác Ái là để trở thành Nữ Tử của Chúa, những Nữ Tử hoàn toàn thuộc về Chúa.”[xxxviii]
Thánh Vinh Sơn, trong bài nói chuyện với các nhà truyền giáo, đã nhận xét về câu nói này của Chúa Giêsu: “các con hãy nên hoàn thiện như cha các con ở trên trời là đấng hoàn thiện,”[xxxix] đó là một “mục tiêu cao xa,” ngài nói với họ, “tuy nhiên, đó là tiêu chuẩn.” Và ngài nói thêm: “tuy nhiên, như tất cả các Kitô hữu đều nỗ lực để đạt được nó, tuy nhiên, Thiên Chúa nhìn thấy sự khinh thường của một số đông, bằng những cách nhất định mà con người phải mộ mến, nên ngài đã khiến một số người hiến thân cho Đấng toàn năng của mình để thực hiện, với ân sủng của Ngài, để trở nên hoàn hảo bản thân và dẫn dắt người khác đến sự hoàn hảo.”[xl]
Thánh Vinh Sơn đưa ra một lời giải thích tương tự cho các Nữ Tử Bác Ái trong một buổi Đàm Luận về ơn gọi.[xli] Và trong một dịp khác, khi đề cập đến Tu Hội như là một sự tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, ngài nói: “để làm những gì Thiên Chúa đã làm trên trái đất? chị em thì không hoàn hảo nhất chăng? Ôi! thưa các chị em, chị em có thể trở thành thiên thần bằng xương bằng thịt chứ?”[xlii]
Lời khấn của Tu Hội là một dấu chỉ đòi hỏi cực kỳ khắt khe, mặc dù họ thì không là nữ tu. Hãy lắng nghe điều này từ thánh Vinh Sơn: “và sẽ là điều rất tốt, nếu những người mà Thiên Chúa đã ban ân sủng cho việc dâng hiến bản thân cách hoàn hảo hơn cho Ngài và những người đã hứa phục vụ Ngài trong Tu Hội thì đã lặp lại lời khấn của họ.”[xliii] “Chị em có thể đã chọn Chúa như Đấng Lang Quân của mình, bằng cách gia nhập vào Tu Hội, và Ngài đã đón nhận chị em như Hiền Thê, để tốt hơn, chị em như đã thành hôn với Ngài và để vào cuối bốn hoặc năm năm, hơn hoặc kém, chị em đã trao dâng trọn vẹn bản thân mình cho Ngài, đến nối chị em là Hiền Thê, còn ngài là Lang Quân của chị em.”[xliv] “Các Nữ Tử của tôi, tên của mỗi chị em được viết trong cuốn sách của bác ái, khi chị em dâng mình cho Chúa để phục vụ người nghèo; và đặc biệt, vào ngày khi chị em làm lời khấn, chị em đã lãnh nhận tên này, tên mà thiên Chúa đã ban nó cho chị em.”[xlv]
Các Nữ Tử Bác Ái dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa trong sự “trung thành với Bí tích Rửa Tội” của họ.[xlvi] Họ cố gắng để sống ơn thánh hóa của Bí Tích Rửa Tội trong việc phục vụ Đức Kitô nơi người nghèo và để hoàn tất điều này họ thực hành Lời Khuyên Phúc Âm, điều họ đã khấn hằng năm với tư cách không phải là nữ tu.[xlvii] Họ tuyên khấn theo công thức của lời khấn sau khi đã khẳng định: “tôi là … lặp lại lời lời hứa trong Bí Tích Rửa Tội của tôi.”[xlviii]
Nói cách khác, sự tận hiến hoặc dâng mình hoàn toàn cho Chúa để phục vụ Đức Kitô nơi người nghèo, như được thực hiện bởi các Nữ Tử Bác Ái, cũng là một lời đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để sống theo những giáo huấn Tin Mừng, điều ngụ ý sự dâng hiến thanh tẩy. Theo nghĩa này, thánh Vinh Sơn muốn, không hơn, không kém rằng, các Nữ Tử Bác Ái là những “người Kitô hữu tốt lành” và ngài đã không đòi hỏi bất cứ điều gì chính xác hơn, như ngài đã đòi hỏi họ là một Nữ Tử tốt lành.
5. Một số điểm nhấn mạnh cho các Nữ Tử Bác Ái ngày nay liên quan đến lời khấn
Nếu việc tuyên khấn lần đầu và lặp lại lời khấn hàng năm dành cho các Nữ Tử Bác Ái là một sự xác nhận cho việc tận hiến, một lời Xin Vâng mới, được tuyên bố trong sự tự do đối với ơn gọi mà Thiên Chúa đã kêu gọi họ, đó phải là tất cả những gì được bao gồm trong ơn gọi này. Điều đó được công nhận trong cả hai, khi khấn lần đầu cũng như khi lặp lại hằng năm.
Tôi sẽ tập trung sự chú ý của tôi vào một số khía cạnh mà theo tôi, hiện đang cần nhấn mạnh đặc biệt trong Tu Hội. Trong khi nhận ra rằng, những điều khác có thể được đề cập, tôi sẽ tự giới hạn để chỉ nhấn mạnh tới sáu điểm, hai điểm đầu tiên liên quan đến lời khấn nói chung và những điều khác nói đến mỗi một trong bốn lời khấn nói riêng.
a) Tổng quát về lời khấn
Việc những lời khấn không là lời “khấn dòng” và được lặp lại hàng năm, không làm giảm tính triệt để của Tin Mừng được hàm chứa trong việc đảm nhận những Lời Khuyên Phúc Âm bằng lời khấn. Thánh Vinh Sơn kêu gọi các chị em hãy sống theo ơn gọi của mình cách chín chắn hơn, “ngay từ giây phút khi chị em làm lời khấn.” Như ở trên, tôi đã nói rằng việc đảm nhận những Lời Khuyên Tin Mừng qua lời khấn, trong Giáo Hội, luôn luôn có ý nghĩa một sự bước theo Chúa Kitô cách triệt để. Và nếu lời khấn không phải là điều này, chúng sẽ mất lý do để tồn tại.
Cha Maloney đã viết: “Các lời khấn là những dấu chỉ ngôn sứ và những câu chuyện cuốn hút, nếu sống trung thành cho đến cùng. Nếu không, chúng trở thành một vụ bê bối, một lời nói dối, câu chuyện của một người đã cho đi, nhưng sau đó đã lấy lại.”[xlix] Không có sự lưu ý đến tính triệt để này, lời khấn sẽ trở thành như muối mất đi hương vị của nó và giống như men không còn làm dậy bột. Chúng ta phải ở trong một tình trạng của nhận thức cao độ về việc những lời khấn trở nên giả dối và tương đối hóa, có thể xảy ra đối với một số chị em. Đó là lý do tại sao Ban cố vấn Tỉnh dòng phải thể hiện sự biện phân khi chị em đề nghị khấn lần đầu, cũng như lặp lại lời khấn và do đó khuyến khích sự chuẩn bị đầy đủ cho các hành vi này.
b) Tính tạm thời của lời khấn
Thực tế của việc các các Nữ Tử Bác Ái làm lời khấn trong một năm và họ có thể lặp lại lời khấn, không ảnh hưởng đến việc chọn lựa ơn gọi đó trong suốt cuộc đời. Hai Đấng Sáng Lập của chúng ta thường nhấn mạnh vào điểm này. Thánh Vinh Sơn nói: “chị em đã dâng mình cho Chúa trong Tu Hội với ý định sống và chết ở đó.”[l] Và Thánh Louise viết: “… chúng ta không chấp nhận bất cứ ai không có ý định sống và chết trong Tu Hội.”[li]
Có lẽ, bị ảnh hưởng bởi văn hóa ngày nay, vì lo sợ kéo dài cam kết và ưu tiên cho những điều ngắn hạn, một số chị em liên kết đến việc chọn lựa ơn gọi với sự tạm thời của lời khấn của họ. Ý định của các Đấng Sáng Lập là hoàn toàn ngược lại. Họ đồng ý rằng, lời khấn được thực hiện trong Tu Hội như một dấu chỉ ơn gọi của sự trưởng thành và kiên định. Sự trung thành với ơn gọi bao gồm sự kiên trì bền bỉ,[lii] ngay cả khi lời khấn được thực hiện trong một năm.
Việc lặp lại hằng năm không có nghĩa rằng lời khấn là tạm thời, nhưng đó là sự năng động, một lực đẩy mới và đào sâu vào những gì mà sự tận hiến trong Tu Hội ám chỉ. Điều này phải rất rõ ràng với các Nữ Tử Bác Ái, ngay cả khi các tu hội khác có phần nhầm lẫn về mặt này.
Vài tháng trước đây, trong một cuộc họp với các bề trên thượng cấp, có vài người cho rằng, một cách để thu hút ơn gọi thì nên làm lời khấn một năm, tương tự như với Nữ Tử Bác Ái. Lý do cho tuyên bố này, là đã có một mối liên hệ với sự nhạy cảm hiện tại của những người trẻ. Đây là một nhận thức sai lầm về ý nghĩa của tính tạm thời của những lời khấn trong Tu Hội và một cách trình bày sai lầm và không chính xác trong việc trình bày một ơn gọi cho những người trẻ, bằng chứng cho điều này nằm ở chỗ các Nữ Tử Bác Ái không thu hút được nhiều ơn gọi hơn các tu hội hoặc dòng tu khác.
Nếu các chị em của Tu Hội không lặp lại lời khấn hàng năm như là một dấu hiệu xác nhận và thăng tiến sâu hơn trong ơn gọi của họ, thì tính tạm thời của lời khấn này sẽ trở thành một cơ hội của sự xung đột và phi lý. Có những xung đột đối với các chị em, người mà khi yêu cầu để lặp lại lời khấn của họ, đặt câu hỏi, năm này qua năm khác, liệu họ nên ở lại hay rời đi. Điều này gây ra sự mất quân bình, mất ổn định, mất sự hiệp nhất, khiến họ có rất ít cảm thức thuộc về Tu Hội.
Cũng có sự bất đồng và xung đột đối với các chị em và đối với các hành động pháp lý khác nhau của việc quản trị, trước các khả năng khác nhau, như đã được đề cập trong Hiến Pháp: đề xuất hoặc áp đặt một sự trì hoãn trong việc lặp lại lời khấn, trong bao lâu, nó sẽ được thực hiện như thế nào, sự đồng hành nào đã được dành cho họ, họ đã trải qua nhiều năm ơn gọi hay chưa, v.v. Điều nghiêm trọng hơn là khi một người yêu cầu cho sự miễn trừ khỏi các lời khấn một quãng trước hoặc sau khi lặp lại các lời khấn, đặc biệt là nếu lý do bị cáo buộc đã tồn tại trước đó.
Điều này không biểu thị sự mất giá của lời khấn sao? Phúc thay, những trường hợp này không có nhiều nơi các chị em. Tuy nhiên, trong một tổ chức như Tu Hội, nơi các thành viên làm lời khấn trong một năm, yêu cầu cho miễn trừ phải là ngoại lệ, nếu ý nghĩa của việc cam kết của một người trước Thiên Chúa bởi lời khấn được thực hiện nghiêm túc.
c) Lời khấn Khiết Tịnh
Trong một xã hội theo chủ nghĩa khoái lạc, nhấn mạnh về sự thỏa mãn tính dục, thì sự độc thân khiết tịnh trở nên khó hiểu; có sự không tin tưởng vào tính xác thực của lối sống này hoặc nó bị nghi ngờ. Đây là bối cảnh mà đời sống tận hiến đảm nhận Lời Khuyên Phúc Âm về sự khiết tịnh ngày nay.
Chắc chắn rằng, cuộc cách mạng tình dục đã giúp làm cho tính dục bớt đi sự căng thẳng và vượt qua một số điều cấm kỵ. Nhưng chúng ta không được bỏ qua, rằng mặc dù các khía cạnh tích cực của nó, tính dục đã được thực hiện và mang lại sự thất đoạt trong xã hội cũng như đời sống tôn giáo.
Thống kê, đáng tin cậy và không đáng tin cậy, cho chúng ta biết rằng, các vấn đề chưa được giải quyết về tính dục là nguyên nhân lớn nhất của hầu hết việc từ bỏ ơn gọi, mặc dù chúng ta cũng liệt kê các nguyên nhân khác. Tương tự như vậy, những biểu hiện chưa trưởng thành và bị bóp méo về mặt tính dục và cảm xúc, đã là nguồn gốc của một số hành vi của cuộc sống cộng đoàn và việc phục vụ người nghèo.
Điểm nhấn mạnh cho lời khấn này là: đầu tiên, một huyền nhiệm của sự khiết tịnh. Nếu không có một tình yêu vô tận cho Chúa Kitô và công trình của Ngài, được gìn giữ bởi lời cầu nguyện và được hỗ trợ bởi một cộng đoàn yêu thương, thì sự khiết tịnh Tin Mừng của người được thánh hiến sẽ trở nên bất khả thi và thiếu động lực thực sự của nó. Thứ hai, trong các giai đoạn đào tạo tiên khởi, ngày nay hơn bao giờ hết, thông tin rõ ràng và sự đào tạo vững chắc phải được đưa ra trong những gì liên quan đến tính dục và cảm xúc và trong những gì được ngụ ý và được biểu thị, khi sống như một người độc thân khiết tịnh.
Một cái nhìn tích cực về tính dục không loại trừ sự cảnh giác và khổ hạnh. Một số biện pháp phòng ngừa mà thánh Vinh Sơn đã đề xuất với các chị em như là phương tiện để bảo vệ sự khiết tịnh dường như quá đáng đối với chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, kinh nghiệm xác nhận sự cần thiết phải quân bình cảm xúc và cảnh giác trong mối quan hệ bạn bè, cũng như việc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, vv…
Đồng thời, vì đức khiết tịnh là một sự dâng hiến tràn đầy niềm vui và một sự hy sinh quên mình. Hiến Pháp nhắc lại rằng: “đức khiết tịnh là một lời đáp trả của tình yêu đối với lời kêu gọi của tình yêu, liên quan đến việc tham gia vào mầu nhiệm Vượt qua, mầu nhiệm của sự sống và sự chết.”[liii] Nếu đúng là lời khấn khiết tịnh của các Nữ Tử Bác Ái cũng được định hướng đến với việc phục vụ người nghèo, thì điều này không phải là nền tảng. Nó dựa trên mẫu gương của Chúa Kitô và một tình yêu dành cho Thiên Chúa hơn tất cả thứ khác. Đức khiết tịnh không được tóm kết như là một công cụ cho sự nghiệp cao cả của việc phục vụ người nghèo.
d) Lời khấn Khó Nghèo
Ngày nay, những điểm nhấn mạnh cho lời khấn khó nghèo được thực hiện bởi các Nữ Tử Bác Ái có thể được cụ thể hóa:
Tu Hội phục vụ người nghèo thông qua các công việc đa dạng. Để hoàn tất điều này, Tu Hội cần có của cải vật chất, đồ đạc và nhà cửa. Nó đã như vậy ngay từ đầu và phải được nhận ra rằng, nó không cản trở các Đấng Sáng Lập, cũng như những chị em đầu tiên trong việc sống đức khó nghèo Tin Mừng.
Trong một môi trường của chủ nghĩa tiêu dùng và lãng phí, đặc biệt đối với các nước giàu hơn, sự diễn đạt về đức khó nghèo của các Nữ Tử Bác Ái phải là một lối sống ôn hòa và đơn sơ. Chúng ta phải thận trọng vì nó rất dễ đi từ sự cần thiết đến sự thuận tiện và từ đó trở nên dư thừa.
Nếu rất khó để sống chứng nhân và sống đức khó nghèo trong việc làm giàu, thì điểm nhấn mạnh về lời khấn này được diễn đạt cho các cộng đoàn và các tỉnh nghèo và bắt đầu quá trình tự lập. Có thể họ không khát khao làm giàu hoặc có nhiều của cải; có thể họ không nhất thiết gắn kết hiệu quả của việc phục vụ người nghèo với các công trình lớn. Người nghèo có thể được phục vụ bằng cách sử dụng các phương tiện đơn giản, mà không gây nên ấn tượng là một tổ chức hùng mạnh được hỗ trợ bởi nguồn vốn nước ngoài vô tận. Việc trở nên nghèo khó và sống trong nghèo khó giữa người nghèo sẽ dễ hơn và có lẽ càng có tính Tin Mừng hơn, khi người ta tự do chọn mình trong số họ, hơn là có vẻ nghèo trong khi có nhiều của cải.
Một điểm nhấn mạnh khác liên quan đến lời khấn khó nghèo của các Nữ Tử Bác Ái là việc sử dụng của cải cá nhân. Chúng ta sẽ nói về điểm này, vì điều cần thiết là chị em cũng như các Đại Diện Tỉnh phải rất rõ ràng trong suy nghĩ của họ khi hỏi hoặc cho phép sử dụng những của cải được gọi là “cá nhân” này.
e) Lời khấn Vâng Phục
Trên hết, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã nhập thể để hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã ủy thác cho Ngài, một sứ mệnh của việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Lời khấn về đức vâng phục của Tu Hội tìm kiếm để tạo điều kiện cho việc tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô giữa người nghèo. Quyết tâm của thánh Vinh Sơn rằng, các Nữ Tử Bác Ái không là nữ tu, là để việc nội cấm không cản trở họ đi đến nơi mà người nghèo đang vẫy gọi.
Nhưng ngoài việc vượt qua trở ngại về thể lý này, các Nữ Tử Bác Ái được yêu cầu trở thành những “Nữ Tử đi đi về về”, một trạng thái luôn sẵn sàng và khả năng di động lớn lao. Khi Thánh Vinh Sơn đã nói chuyện với các chị em về đức vâng phục, ngài hầu như luôn bày tỏ, đó là sự sẵn sàng của các chị em đi đến nơi bề trên sai họ đến và nơi những người nghèo đang gọi.
Trong văn hóa hiện tại, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa vị kỷ thường ẩn núp dưới danh nghĩa của sự tôn trọng tự do cá nhân. Điểm nhấn mạnh liên quan đến lời khấn ngày nay về đức vâng phục bao gồm việc khơi dậy sự sẵn sàng. Việc thuyên chuyển cần thiết và liên tục các công việc ở mỗi tỉnh dòng không thể được thực hiện, nếu không có sự sẵn sàng của chị em. Sứ vụ của Tu Hội phải không bị cản trở bởi các kế hoạch cá nhân hoặc bởi tình cảm, sự trói buộc chuyên môn hoặc tông đồ của chị em. Đức vâng phục đòi hỏi những trái tim tự do chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa, cũng nhận thức được rằng, quyền bính, sự biện phân trong cộng đoàn và các dấu chỉ của thời đại là cần thiết để khám phá các kế hoạch của Thiên Chúa dành cho Tu Hội.
f) Phục vụ Người Nghèo
Khi các Nử Tử Bác Ái khẳng định rằng lời khấn phục vụ người nghèo là lời khấn đặc trưng nhất của Tu Hội, đó là diễn tả của sự tận hiến của họ, khuôn khổ thống nhất đó hiệp nhất và mang lại ý nghĩa cho ba lời khấn khác, chúng sẽ làm những khẳng định xác thực nhưng chưa đạt toàn bộ sự thật. Vì “phục vụ người nghèo thì chưa đủ,”[liv] “nhiều người khác … tuyên khấn như chị em đã làm, để giúp đỡ người nghèo nhưng không phải theo cách tương tự.”[lv]
Nó phải luôn luôn được thêm vào: rằng việc phục vụ người nghèo được thực hiện với tư cách Nữ Tử Bác Ái. Điều này đòi hỏi phải nhìn người nghèo bằng con mắt đức tin, nhìn nhận họ là hình ảnh của Chúa Kitô; đồng thời tìm cách để giúp đỡ họ, thăng tiến và truyền giáo cho họ, phục vụ trong một thái độ thực sự của người tôi tớ, thể hiện bằng sự khiêm nhường, đơn sơ và bác ái. Bằng cách này, chị em sẽ sống với việc phục vụ này như là một biểu hiện của sự tận hiến của họ và tránh nguy cơ rơi vào sự chuyên nghiệp. Sau đó, điểm nhấn mạnh cho lời khấn phục vụ người nghèo sẽ là để phục hồi hoặc phát triển hơn nữa sự huyền nhiệm của sự phục vụ. Và điều này có liên quan rất nhiều đến việc làm cho người nào, tại sao và người nghèo được phục vụ như thế nào?
Phần kết luận
Lời khấn của các Nữ Tử Bác Ái không là lời “khấn dòng.” Nhưng đối tượng của lời khấn của họ cũng giống như đối với các nữ tu: những Lời Khuyên Phúc Âm về khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Theo Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến (Vita Consecrata) việc đảm nhận những Lời Khuyên Phúc Âm chỉ có thể được giải thích “là tình yêu và sự quảng đại không biên giới.”[lvi]
TÌnh Yêu Chúa hơn bất cứ người nào thể hiện trong sự khiết tịnh; nhiều hơn bất cứ điều gì khác trong đức khó nghèo; hơn chính bản thân trong sự vâng phục. Sự khác biệt giữa lời khấn của các Nữ Tử Bác Ái và những lời tuyên khấn của các nữ tu, thì không hơn kém trong tính triệt để Tin Mừng, nhưng là theo cách hiểu về chúng và trong một số khía cạnh pháp lý. Sự trung thành với ơn gọi của một người bao hàm một sự sáng tỏ về chính bản sắc và tính đặc thù của nó.
Hai khía cạnh này được hiểu trong cụm từ súc tích này của cha Lloret: “người ta không phải là Nữ Tử Bác Ái qua việc làm lời khấn, nhưng người ta làm lời khấn, bởi người ta là một Nữ Tử Bác Ái và luôn luôn để hoàn hảo hơn thế.”[lvii] Những từ này cũng thể hiện rõ tính đặc thù của lời khấn trong Tu Hội, như ý nghĩa năng động của việc làm mới lại lời khấn hàng năm.
Tuy nhiên, các Nữ Tử Bác Ái, vì lý do của việc tận hiến đặc biệt của họ cho Thiên Chúa, không đồng hóa bản thân họ với giáo dân. Do đó, vì lý do tương tự, họ cũng không được đồng nhất với nữ tu. Họ không hơn hoặc kém người này hay người khác; họ thì khác. Chính Chúa Thánh Thần đã sáng tạo trong Giáo Hội những đặc sủng khác nhau và những cách khác nhau để theo Chúa Kitô. Giáo Hội khẳng định rằng mỗi tu hội thì trung thành với đặc sủng của mình, đã được thuyết phục rằng, sự đa dạng về các đặc sủng này trang hoàng thân thể của Chúa Kitô.
Sự đa dạng của các đặc sủng này có lẽ là một câu hỏi về các chi tiết, nhưng điều này không có nghĩa là nó được thực hiện một cách tình cờ vì nó chạm vào căn tính của mỗi tu hội. Đó là lý do tại sao điều quan trọng là phải biết và nhập thế cách trung thành những gì cụ thể trong mỗi đặc sủng. Tính tạm thời của lời khấn hàng năm và việc lặp lại các lời khấn của Nữ Tử Bác Ái như một xác định tiến triển về sự tận hiến cụ thể của họ, là một câu hỏi về lòng trung thành với bản sắc riêng của họ. Hơn nữa, đó là một sự năng động linh đạo, có tác động lợi ích đối với sức sống mà những gì các Nữ Tử Bác Ái sống sự dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Pt Phêrô Phạm Minh Triều, CM
(chuyển ngữ từ: Quintano, Fernando C.M. (2001) “Vows of the Daughters of Charity” trong tạp chí Vincentiana: Vol. 45 : No. 4 , Article 9)
[i] Cf. Hiến Pháp của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái 1.5.
[ii] CED: VI, 413. CED được viết tắt theo bộ sách: Saint Vincent de Paul. Correspondence, Entretiens, Documents, biên tập: Pierre Coste, 14 tập, bản tiếng Pháp (Paris: 1920-1925). Ví dụ: CED: VI, 413. số La mã chỉ số tập và số kế tiếp chỉ số trang.
[iii] Gioan Phaolô II. Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến (Vita Consecrata), số 87.
[iv] Ibid, số 88.
[v] Ibid, số 89.
[vi] Ibid, số 91.
[vii] Cf. Lc 4:1-13.
[viii] 1 Ga 2:16
[ix] CED: IX, 820.
[x] Hiến Pháp của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái 2.7.
[xi] CED: IX, 815.
[xii] CED: IX, 816.
[xiii] CED: IX, 887.
[xiv] CED: IX, 12.
[xv] CED: IX, 21-22.
[xvi] CED: IX, 474.
[xvii] Xem Giáo Luật 1983 điều 731.
[xviii] Hiến Pháp của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái 2.5.
[xix] CED: IX, 409.
[xx] CED: VII, 397.
[xxi] Cf. Hiến Pháp của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái 2.4 đến 2.8; 2.1; 2.9 and the Instruction on the Vows, 1989.
[xxii] CED: IX, 22.
[xxiii] Hiến Pháp của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái 2.9.
[xxiv] Hiến Pháp 2.5.
[xxv] Hiến Pháp 2.9.
[xxvi] Hiến Pháp 2.4.
[xxvii] Hiến Pháp 3.6.
[xxviii] Hiến Pháp 1.5
[xxix] Xem Giáo luật 1983, điều 654.
[xxx] CED: IX, 1213.
[xxxi] Hiến Pháp 1.13.
[xxxii] Xem Giáo Luật 1983, điều 731.
[xxxiii] CED: IX, 417, 802.
[xxxiv] CED: IX, 1213.
[xxxv] CED: IX, 1211.
[xxxvi] CED: IX, 12.
[xxxvii] CED: IX, 1235, 1211.
[xxxviii] CED: IX, 12.
[xxxix] Mt 5:48
[xl] CED: XII, 599.
[xli] CED: IX, 12-15.
[xlii] CED: IX, 518.
[xliii] CED: IX, 315.
[xliv] CED: IX, 779
[xlv] CED: IX, 1045
[xlvi] Hiến Pháp 1.4
[xlvii] Hiến Pháp 2.4; 2.5.
[xlviii] Hiến Pháp 2.5.
[xlix] Robert P. Maloney. Echoes of the Company. (May 1996,) tr 216.
[l] CED: IX, 559.
[li] Spiritual Writings, L 486, p. 513
[lii] CED: IX, 555-556.
[liii] Hiến Pháp 2.6.
[liv] CED: IX, 1172.
[lv] CED: IX, 525.
[lvi] Gioan Phaolô II. Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến (Vita Consecrata), số 105a.
[lvii] Michel Lloret. Echoes of the Company. (September-October 1985).