Chúa nhật Lễ Lá – Năm C
(Bài đọc I: Is 50:4-7; Bài đọc II: Pl 2:6-11; Tin Mừng: Lc 22:14-23:56)
Bước đi với Chúa trong hành trình khổ nạn và Phục sinh
Khai mạc Tuần Thánh với việc cử hành Lễ Lá, Giáo hội mời gọi mọi kitô hữu cùng chú ý và hướng về những ngày cử hành đỉnh cao của năm phục vụ. Đó là Tam Nhật Thánh sau những ngày đầu tuần thánh và lễ Phục Sinh huy hoàng của Đức Giêsu, Đấng cứu độ. Đây là những ngày thật đặc biệt trong đời sống đức tin của mỗi người kitô hữu. Vì đó không phải chỉ là những cử hành mang tính kỷ niệm hay ước lệ, nhưng là những trải nghiệm thực sự của đời sống đức tin, khi mỗi người kết hợp đời sống của mình với cuộc đời của Đấng Cứu Thế trong công trình cứu độ.
Trong Bài đọc rước kiệu, trích từ Tin Mừng theo Thánh Luca (19:28 – 40), chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi chuẩn bị cho bữa ăn cuối cùng của họ cùng nhau, Lễ Vượt Qua. Sau đó, chúng ta biết về cuộc rước khải hoàn của Ngài vào Giêrusalem, nơi mà vài ngày sau, một số trong những người này sẽ hét lên “đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23, 21). Trong câu chuyện này, chúng ta có thể nói rằng, Chúa Giêsu biết điều gì đang chờ đợi Ngài, rằng với mỗi bước chân, Ngài lại tiến gần hơn đến cái chết. Tuy nhiên, Ngài sẵn sàng chịu đựng, vì vâng lời Chúa Cha và tình yêu của toàn thể nhân loại.
Trong Bài đọc thứ nhất, trích từ Sách Ngôn sứ Isaia (50:4 – 7), chúng ta biết rằng ngôn sứ Isaia cũng đã trải qua cuộc đời nhiều đau khổ, giống như Chúa Giêsu sau này, ngài đã bị bách hại, vì dân chúng không hiểu hoặc không trân trọng những gì ông loan báo cho họ. Ở đây, vị ngôn sứ than thở về cách ông vẫn tiến bước, ngay cả khi bị bách hại dữ dội: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50, 5). Chúng ta có thể nhận ra ngôn sứ Isaia là hình ảnh tiên báo của Chúa Giêsu, người cũng được chính dân Ngài coi là một vị ngôn sứ. Như chúng ta biết, người Do Thái đã giết tất cả các ngôn sứ, vì họ không được chấp nhận hoặc tin tưởng. Và Chúa Giêsu cũng đã chung số phận với các ngôn sứ như thế.
Thánh vịnh Đáp ca là (Tv 22:8 – 24). Thánh vịnh này bắt đầu bằng những lời, “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?”— những lời mà Chúa Giêsu kêu lên từ trên thập giá, trước hết vì Ngài là con người và đang đau khổ, nhưng cũng vì những lời này đã được viết về Ngài hơn 200 năm trước, như lời ngôn sứ về người tôi tớ đau khổ của Chúa, một vai trò mà Chúa Giêsu hiện đang hoàn thành. Nửa sau của Thánh vịnh này là bài ca chiến thắng để mong đợi chiến thắng của sự Phục sinh.
Bài đọc thứ hai, trích từ Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê (2:6 – 11), là bản tóm tắt đầy chất thơ về vai trò của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã hoàn thành khi đến thế gian, sống và chết vì tình yêu dành cho Chúa Cha và cho toàn thể nhân loại. Sau đó, nó phản ánh danh dự mà Chúa Cha ban cho Ngài, vì đã hoàn thành sứ mệnh mà Ngài được sai đến “và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” ( Pl 2, 11). “Danh dự” đó là danh xưng hoặc danh hiệu CHÚA, một sự tôn vinh Chúa Giêsu ngang hàng với Chúa Cha.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá thường được đọc bởi ba người từ Tin Mừng theo Thánh Luca (22:14-23:56). Trong đó, chúng ta nghe câu chuyện quen thuộc về Bữa Tiệc Ly, sự phản bội của Giuđa, sự bắt giữ và đau khổ của Chúa Giêsu, và cuối cùng là sự đóng đinh. Phải đến Chúa Nhật Phục Sinh, chúng ta mới nghe phần thứ ba của sự kiện trọng đại này. Vì vậy, hãy lắng nghe thật kỹ! Hãy đặt mình vào bối cảnh đám đông. Chúng ta có phải là một trong những người hét lên, “đóng đinh hắn đi!” Hay chúng ta là người lặng lẽ đứng đó và thầm nói, “lạy Chúa, xin thương xót con, một tội nhân?”
Thật sự, một hình ảnh nổi bật trong cử hành Lễ Lá, chính là nhấn mạnh đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Đấng đã hiến mình chịu chết vì nhân loại. Một cái nhìn khách quan sẽ cho thấy rằng, đó là một đời đầy cay đắng, đau khổ và thất bại. Đôi khi người ta cảm thấy rùng mình, khi đọc lại những trang phúc âm mô tả về cuộc khổ nạn của Chúa và ngay cả bài đọc một, về hình ảnh người tôi tớ đau khổ. Thế nhưng, những sự thật đau khổ này cần phải được nối kết với Tin Mừng của buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh, khi sự đau khổ, cái chết, trở nên vinh quang và mang lại cảm giác dễ chịu và hạnh phúc theo tâm lý của con người.
Vậy đứng trước đau khổ của Chúa, chúng ta có thể nhận ra vài tâm tình để giúp chúng ta sống niềm hy vọng với những đau khổ mà chúng ta đang phải đối diện. Thiên Chúa yêu thương chỉ cho chúng ta biết mục đích của Ngài, để giữa lúc đau khổ, chúng ta vẫn có lý do để hy vọng.
Chúng ta đau khổ, vì chúng ta sống trong một thế giới sa ngã. Sau sự sa ngã của Adam và Eva, cả nhân loại khoác lên mình một màu xám của tội lỗi và đau khổ. Những hạnh phúc và sự tốt lành ban đầu trong công trình sáng tạo đã bị đánh mất, vì bất phục tùng Thiên Chúa. Giờ đây con người phải đối diện với sự mất mát của mình, là mất đi sự thân tình với Thiên Chúa. Qua sự rạn nứt đó, để cuối cùng chúng ta sẽ hiểu được sự thật rằng, hy vọng và sự an toàn không bao giờ được tìm thấy bởi những gì ở trong chúng ta, mà chỉ bởi những gì ở trong Chúa. Để hoàn thành điều này, Ngài phải đặt chúng ta vào những tình huống, mà chúng ta không thể thực hiện được dựa trên sức mạnh và sự khôn ngoan của mình, mà thay vào đó là dựa vào ơn cứu độ của Ngài.
Chúng ta đau khổ, vì Chúa dùng nó để tạo ra điều tốt lành trong chúng ta.Trong đau khổ của chúng ta, Chúa đang hành động để ban cho chúng ta điều gì đó tốt hơn nhiều so với những gì chúng ta mong muốn. Ngài không bằng lòng ban phát sự cứu trợ tạm thời, khi sự thay đổi vĩnh cửu mới là điều chúng ta thực sự cần. Trong lòng nhiệt thành của tình yêu cứu chuộc, Ngài sử dụng những công cụ cứng rắn, để tạo ra những trái tim mềm mại, nhưng mạnh mẽ, và đó là một điều rất tốt. Hãy nghĩ đến sức mạnh trong đau khổ để thay đổi chúng ta: đau khổ có sức mạnh phá hủy lòng tự tin của chúng ta; sự đau khổ có sức mạnh phơi bày lòng tự cho mình là đúng của chúng ta; đau khổ có sức mạnh phá hủy các thần tượng của chúng ta.
Sự đau khổ chuẩn bị cho chúng ta cách Chúa sẽ sử dụng chúng ta. Chúa khiến chúng ta khao khát và trải nghiệm sự an ủi của Ngài, để chúng ta sẵn sàng trở thành tác nhân của sự an ủi của Ngài, trong cuộc sống của người khác. Điều này có nghĩa là sự đau khổ của chúng ta có mục đích phục vụ. Những gian khổ của chúng ta đủ điều kiện, để chúng ta trở thành một phần của công việc tuyệt vời và quan trọng nhất trong cuộc sống này.
Khổ đau dạy chúng ta rằng, thế giới này không phải là ngôi nhà cuối cùng của chúng ta. Tất cả chúng ta đều giống như những người hành hương trên một hành trình thiêng liêng vĩ đại, sống trong thế giới khó chịu của lều trại và những nơi tạm thời. Mọi khó khăn và mất mát mà chúng ta phải đối mặt, đều được Chúa định liệu để chuẩn bị cho chúng ta về ngôi nhà vĩnh hằng của mình. Chúa đang làm việc thông qua khó khăn, để mở rộng bàn tay của chúng ta và nới lỏng trái tim chúng ta khỏi sự kìm kẹp chặt chẽ của chúng ta vào ‘ở đây và bây giờ’. Ngài đang làm việc để giải thoát chúng ta khỏi hy vọng rằng, thế giới hiện tại này sẽ mãi mãi là thiên đường mà trái tim chúng ta mong ước.
Với tất cả tâm tình ấy, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra giá trị thật của đau khổ và để có được sự hoán cải mỗi ngày. Đồng thời cũng xin Chúa cho mỗi người chúng ta có một sự chuẩn bị xứng đáng và sốt sáng để cùng bước vào cuộc khổ nạn với Chúa Giêsu trong Tuần Thánh này.
Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM