Frédéric Ozanam, một giáo dân hiện tại – Chương 5 Khủng hoảng và quyết định trong việc thực hiện tầm nhìn

Đăng ngày: 13/05/2025

Shaun McCarty, S.T.

Chương 5 – Khủng hoảng và quyết định trong việc thực hiện tầm nhìn

Khi Chân phước Ozanam cố gắng đáp trả lại sự tỏ lộ của Chúa quan phòng trong công việc của cuộc đời mình, là một tông đồ của Giáo hội trong thế giới hiện đại, ông đã phải đối mặt với một loạt các cuộc khủng hoảng, trong đó các quyết định phải được đưa ra giữa các hướng hành động thay thế, mà ông có thể theo đuổi cách tốt nhất công việc của cuộc đời mình.

Về cuộc khủng hoảng đức tin quan trọng đầu tiên của mình ở tuổi vị thành niên, ông đã viết cho một người bạn vào tháng 1 năm 1830 về cuộc đấu tranh nội tâm mà ông đã trải qua khi mới mười lăm tuổi: “…Sau khi liên tục lắng nghe những người không tin và những biểu hiện của sự không tin, tôi bắt đầu tự hỏi tại sao mình lại tin. Tôi bắt đầu nuôi dưỡng sự nghi ngờ…”[1]

Hai năm trước khi mất, ông đã nhắc đến cuộc khủng hoảng tương tự trong lời tựa của mình cho cuốn sách Nền văn minh Kitô giáo vào thế kỷ thứ năm: “Giữa thời đại hoài nghi, Chúa đã ban cho tôi ân sủng để được sinh ra trong đức tin chân chính…”[2] Ân sủng đó, như chúng ta đã thấy, đã được truyền đạt thông qua sự giúp đỡ khôn ngoan và hiểu biết của Abbe Noirot, người thầy và người hướng dẫn suốt đời của ông. Người anh trai, kiêm người viết tiểu sử của ông đã nhận xét rằng, chính cuộc khủng hoảng đức tin ban đầu này đã giúp Frederic Ozanam trở nên từ bi với những người không tin.[3]

Khi suy ngẫm về cuộc đấu tranh của Frederic Ozanam và cách giải quyết sau đó, một số sự thật trở nên rõ ràng. Ảnh hưởng của môi trường và văn hóa đối với đức tin, dù tốt hay xấu, đều rất mạnh mẽ. Tương tự như vậy, ảnh hưởng của một gia đình Kitô giáo yêu thương và một người hướng dẫn khôn ngoan và thánh thiện đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết cuộc đấu tranh như vậy với đức tin. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh và đau khổ đi kèm với nó đã chứng tỏ là, thời gian thử thách thường diễn ra trước khi đức tin thực sự được củng cố và phát triển. Thành quả của cuộc khủng hoảng như vậy có thể bao gồm lòng trắc ẩn sâu sắc hơn đối với những người khác đang trải qua cùng một loại trải nghiệm. Không có hiểu biết lý thuyết nào có thể sánh được với trải nghiệm thực tế, khi giải quyết một cuộc khủng hoảng cá nhân.

Sau đó, có một cuộc khủng hoảng kéo dài hơn về sự nghiệp, trong đó Ozanam bị giằng xé giữa mong muốn theo học ngành Luật của cha mẹ và khuynh hướng theo đuổi sự nghiệp văn chương của riêng mình.

Trong nền văn hóa thời bấy giờ, việc một chàng trai trẻ được cha mẹ lựa chọn nghề nghiệp là điều không hiếm gặp. Trên thực tế, ngay cả ngày nay, áp lực về sở thích gia đình vẫn rất lớn, đặc biệt là trong các gia đình trung lưu và thượng lưu ở Pháp. Sự ngoan ngoãn của con cái sẽ thúc đẩy sự tuân thủ. Vì vậy, Frederic Ozanam đã phải trải qua tám năm đau khổ, vì mong muốn của cha mẹ rằng, ông sẽ theo nghề luật. Họ cảnh giác với “cám dỗ” của văn học, một sự theo đuổi mà họ cho là không dẫn đến bất kỳ mục đích thực tế nào.[4]

Ông đã viết vào tháng 1 năm 1834 về sự phản kháng của mình đối với nghề luật sư, “tôi đang trải qua một trong những thử thách lớn nhất trong cuộc đời mình….”[5] Cùng lúc đó, ông cũng cảm thấy bị hấp dẫn bởi sự nghiệp văn chương không chỉ thông qua khuynh hướng tự nhiên của mình, mà còn bởi sự công nhận từ bên ngoài rằng, năng khiếu của ông theo hướng này đang được đón nhận. Ông nói, “tôi được đề cao… Tôi không nói điều này vì lòng tự hào…”[6]

Nhưng sự không chắc chắn của Frederic Ozanam vẫn chưa kết thúc. Ông đã tham khảo ý kiến ​​của anh trai mình và nhận ra rằng, đây không phải là thời điểm để thay đổi hướng đi. Ông tiếp tục hoàn thành chương trình học luật, cuối cùng lấy bằng tiến sĩ và trở thành luật sư tại Lyons trong một thời gian, điều này khiến ông buồn bã khi phải rời xa sự nghiệp khoa học và văn chương. Ông đã viết vào năm 1837: “Tôi đang phải chịu đựng sự không chắc chắn về nghề nghiệp. Tôi đã phải nhìn thấy những hòn đá và bụi bặm của mọi tầng lớp xã hội, nhưng không thấy bất kỳ sự ưu tú nào. Riêng nghề luật sư ngày càng ít hấp dẫn tôi hơn.”[7]

Sau đó, ông đã tiếp xúc với mặt trái của nghề luật khi ông quan sát các phương pháp được sử dụng và nói:

Hiếm có vụ án nào, dù tốt đến đâu, mà không có ít điều sai trái, và một luật sư công bằng đến mấy cũng phải thừa nhận sự yếu kém. Nhưng đó không phải là cách mà vụ án được đưa ra trước tòa. .. Do đó, đoàn luật sư đã quen với sự lăng mạ, cường điệu và đàn áp, mà ngay cả những thành viên giỏi nhất cũng phải dùng đến cách thế đó, và người ta phải quen với điều đó![8]

Ông cũng bị sốc trước sự thiếu chân thành và thái quá trong nhiều khiếu nại được đưa ra và tuyên bố, “tôi sẽ không bao giờ quen với bầu không khí gian lận.”[9]

Tuy nhiên, ông vẫn tìm thấy trong sự nghiệp luật sư của mình một cơ hội để bảo vệ người nghèo. Trong một trong những vụ án đầu tiên của mình, ông được chỉ định bảo vệ một người quá nghèo không đủ khả năng thuê luật sư. Ông đã đảm nhận vụ án với lòng hăng say và sự chân thành lớn lao. Vì điều này, ông đã bị bên công tố chế giễu, vì coi mọi việc quá nghiêm trọng, và ông trả lời rằng, ông rất ngạc nhiên khi thấy một viên chức có trách nhiệm lại coi nhẹ phẩm giá của tòa án đến vậy. Ông hỏi, “phải chăng việc bảo vệ người nghèo chỉ là trò hề và vị trí của thẩm phán chỉ là vị trí của một diễn viên?”[10] Các thẩm phán mỉm cười chấp thuận và một người ngoài cuộc đã bắt tay ông. Điểm nổi bật ở đây là ngay cả khi không thích nghề luật, Ozanam vẫn luôn cam kết sâu sắc hơn với Chân lý và người nghèo.

Ngay cả sau này, khi đã là giáo sư luật, ông tuyên bố rằng, ông quan tâm đến việc giải thích luật bằng hai ý tưởng cơ bản là công lý và tiện ích. Một tác giả đã chỉ ra lý thuyết xã hội ngay cả trong các bài giảng về luật của mình:

Phần lớn sự nhấn mạnh của ông là về đạo đức trong lĩnh vực luật học và kinh tế xã hội. Bài giảng thứ hai mươi tư của ông đặc biệt đáng chú ý, vì ông khuyến khích sự liên kết của người lao động, trả lương công bằng và sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế cá nhân.[11]

Có lẽ cuộc khủng hoảng dai dẳng và khó khăn nhất của ông là quyết định giữa tình trạng hôn nhân và thế tục, với tình trạng độc thân và tu trì. Vào đầu tuổi trưởng thành, ông dường như không quan tâm (hoặc sợ) đến hôn nhân. Ở tuổi 22, ông đã viết một cách buồn cười về một trong những người đồng chí của mình ‘người có xu hướng thắp nến tại bàn thờ ông tơ bà nguyệt (hymen) bằng những tờ tiền trăm nghìn franc!” Ông tiếp tục nói:

Để củng cố bản thân trước số phận như vậy, và để tiêm phòng cho bản thân trước sự lây lan như vậy, để đắm mình trong tình yêu cô độc và tự do, tôi vừa kết thúc chuyến hành hương cùng anh trai đến các tu sĩ của Grand Chartreuse![12]

Frederic Ozanam bắt đầu trải nghiệm sự thức tỉnh của đam mê và mong muốn tình cảm vượt ra ngoài tình bạn mà ông có. Tuy nhiên, ông dường như đã lý tưởng hóa phụ nữ như ông đã nói:

Mặc dù tuổi của tôi là tuổi của đam mê, nhưng tôi hầu như không cảm thấy những rung động sâu xa nhất của chúng. Cho đến nay, trái tim tôi chỉ biết đến tình cảm đồng chí…Tuy nhiên, tôi dường như bắt đầu trải nghiệm các triệu chứng của một trật tự tình cảm khác, và tôi bắt đầu sợ hãi. Tôi cảm thấy một khoảng trống đang lớn dần trong mình, mà cả tình bạn hay công việc trí tuệ đều không lấp đầy được. Tôi không biết điều gì sẽ lấp đầy nó. Liệu đó có phải là Đấng sáng tạo không? Liệu đó có phải là một thụ tạo không? Nếu là sau này, tôi cầu nguyện rằng cô ấy có thể đến, khi tôi xứng đáng với cô ấy. Tôi cầu nguyện rằng cô ấy có thể…xinh đẹp… cô ấy có thể mang lại đức tính lớn lao trong một tâm hồn vĩ đại…để cô ấy có thể nâng đỡ tôi…đó là sự can đảm, vì tôi thường sợ hãi; là sự nhiệt thành vì tôi thường lạnh nhạt trong những việc của Chúa; là sự thông cảm, để tôi không phải xấu hổ trước cô ấy, vì sự bất xứng của mình.[13]

Hai năm sau, ý tưởng về đời sống tu trì đã cạnh tranh với lời kêu gọi kết hôn và ông đã viết, “Không phải là tôi phải nghi ngờ khuynh hướng của trái tim mình, nhưng tôi cảm thấy có một điều như sự khiết tịnh của nam giới, điều đó không phải là không có danh dự và sự quyến rũ.”[14] Ông nghĩ đến việc gia nhập Dòng Đa Minh vì người bạn của ông, Lacordaire, đã gia nhập và có kế hoạch tái lập Dòng Đa Minh và các dòng tu khác ở Pháp. Ông bày tỏ nhu cầu được hướng dẫn trong sự không chắc chắn này liên quan đến ơn gọi của mình và một lần nữa quay sang Abbe Noirot, người đã khuyên ông nên kết hôn.

Hai tháng sau vào dịp Giáng sinh, ông đã đề cập đến ý tưởng về đời sống tu trì, nhưng ít hy vọng hơn với người bạn Lallier của mình. Vào mùa xuân, sau cái chết của mẹ mình, ông quyết định hoãn quyết định cho đến khi để tang một năm. Sau năm đó, sau khi suy ngẫm thêm, diễn biến của các sự kiện và lời khuyên của Abbe Noirot, cuối cùng ông quyết định rằng, mình không phù hợp với cuộc sống trong tu viện, rằng ông có một sứ mệnh truyền giáo cho giáo dân.

Baunard nói rằng lý do quan trọng nhất trong số nhiều lý do riêng tư và gia đình cho quyết định của ông, là ông không được tự do về mặt đạo đức để bước vào đời sống tu trì, vì ông đã ký kết “một mối ràng buộc không thể tách rời với Hiệp Hội Thánh Vinh Sơn Phaolô ..một công việc tông đồ, nhưng là tông đồ giáo dân.”[15] Ông không chỉ nhận ra nỗi cô đơn tột cùng của mình và nhu cầu được yêu thương vượt xa những người bạn bình thường, mà ông còn có thể thấy rằng, những việc làm tốt không xung đột với hôn nhân. Những người bạn đồng hành của ông trong các công việc từ thiện đã kết hôn. Và tất nhiên, người bạn cũ, người cố vấn và hướng dẫn của ông là Abbe Noirot, luôn cảm thấy rằng Frederic Ozanam nên kết hôn.

Trên thực tế, ông đã nghĩ đến một người và sắp xếp một cuộc gặp gỡ “tình cờ” với con gái của hiệu trưởng Học viện ở Lyons—Amelie Soulacroix. Cái nhìn đầu tiên của ông khi bước vào căn phòng, nơi ông gặp cô lần đầu tiên, là một cô gái trẻ đang chăm sóc một người đàn ông tàn tật, rõ ràng là anh trai của cô. “Đó là hình ảnh quyến rũ của lòng bác ái vừa hiện ra với ông”- Baunard nói.[16] Ông đã đến thăm thường xuyên hơn, đính hôn và cuối cùng là kết hôn. Ông đã viết cho người bạn Lallier của mình vào ngày 6 tháng 12 năm 1841:

Bạn thân mến của tôi ơi, câu hỏi khủng khiếp về nghề nghiệp, vốn đã bị trì hoãn trong một thời gian dài, đã đột nhiên được giải quyết. Cùng lúc đó, Chúa quan phòng gọi tôi đến với sự suy đồi đạo đức nghiêm trọng ở đô thị, thì một thiên thần hộ mệnh đã được ban cho tôi để an ủi nỗi cô đơn của tôi.[17]

Frederic và Amelie sau đó phải đối mặt với quyết định họ sẽ sống ở đâu – Lyons hay Paris. Ông đặt câu hỏi với cô. Nếu họ ở lại Lyons, họ sẽ gần nhà hơn. Nhưng điều đó có nghĩa là Frederic Ozanam sẽ từ bỏ sứ mệnh cao cả mà ông đã mơ ước được chia sẻ với cô. Cô bày tỏ sự tin tưởng vào ông và sẵn sàng mạo hiểm với những điều không chắc chắn của Paris.

Sau sáu tháng xa cách, trong thời gian đó ông tiếp tục đảm nhận trách nhiệm giảng dạy tại Sorbonne, mà ông coi là một dạng lưu vong, ông đã trở về để kết hôn với Amelie vào ngày 23 tháng 6 năm 1841, tại Nhà thờ St. Nizier ở Lyons. Lúc ấy ông 28 tuổi và cô dâu 21 tuổi. Những lá thư ông gửi cho bạn bè sau khi kết hôn thể hiện niềm hạnh phúc vô bờ bến của ông. Sau đó, họ lên đường đi hưởng tuần trăng mật ở Ý, nghe giống như một cuộc hành hương hơn!

Vào ngày 7 tháng 8 năm 1845, gia đình Ozanam chỉ có một đứa con duy nhất và ông đã viết, “sau một loạt những ân huệ quyết định thiên chức của tôi và đoàn tụ gia đình, một ân huệ khác lại xuất hiện và có lẽ là ân huệ tuyệt vời nhất mà chúng tôi có thể có trên trái đất này: tôi là một người cha.”[18]

Cuộc hôn nhân của họ đã chứng minh là rất hạnh phúc. Vào ngày 23 hàng tháng, ngày cưới của họ, cho đến đêm trước khi ông qua đời, ông luôn tặng vợ mình một bó hoa. Khi ông thuyết giảng về “Phụ nữ kitô giáo trong thế kỷ thứ năm”, những bình luận của ông về hôn nhân được lấy cảm hứng từ chính trải nghiệm của ông.[19] Khi sức khỏe của ông suy yếu, ông không thể cảm ơn Chúa đủ vì sự tận tụy của vợ mình.

Tóm lại, điều trở nên rõ ràng trong cuộc đấu tranh nghề nghiệp lâu dài của Ozanam là sự cần thiết phải nhận thức được nhu cầu cá nhân, cũng như hướng đi mà tài năng của một người dường như đang dẫn dắt và những cam kết mà người đó đã thực hiện. Một lần nữa chúng ta thấy rằng, ảnh hưởng và lời khuyên của bạn bè và người hướng dẫn của một người rất quan trọng đối với quá trình ra quyết định. Nhưng điều có vẻ hiển nhiên nhất là sự xác nhận rằng, một quyết định đúng đắn mang lại sự bình yên, sự hài lòng và thúc đẩy cam kết của cuộc sống; trong trường hợp của Ozanam, đó là phục vụ Chân lý và người nghèo.

Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM chuyển ngữ từ vincentians.com/

[1] Baunard, supra, p. 10.

[2] Ibid., p. 9.

[3] Ibid., p. 12.

[4] Ibid., p. 79.

[5] Ibid., p. 80.

[6] Ibid., p. 180.

[7] Ibid.,p.131.

[8] Ibid., p. 132.

[9] Ibid., p. 132.

[10] Ibid., p. 133.

[11] Renner, supra, p. 121.

[12] Baunard, supra, p. 177.

[13] Ibid., p. 178.

[14] Ibid., p. 198.

[15] Ibid., p. 164.

[16] Ibid., p. 182.

[17] Ibid., p. 183.

[18] Ibid., p. 231.

[19] Ibid., p. 322.