Lời đáp trả của Thánh Vinh Sơn đối với cái nghèo về tinh thần

Đăng ngày: 08/07/2025

 

Yvonne Pratt-Johnson, E.D.

Giáo sư ngành Giáo dục, Đại học St. John

Nghèo về tinh thần bao hàm nhiều ý nghĩa hơn là thiếu của cải vật chất hoặc thậm chí thiếu quyền lực. Đúng ra, cái nghèo này còn bao hàm nhân tố yếu đuối, phụ thuộc và không được bảo vệ. Bài viết này sẽ khảo sát khái niệm nghèo về tinh thần, đồng thời bàn luận xem làm thế nào mà thiên hướng cũng như kinh nghiệm cá nhân và nghiệp vụ của tôi lại dẫn tôi đi đến chỗ bắt chước thánh Vinh Sơn trong việc ứng xử với người nghèo. Ngoài ra, tôi cũng muốn bàn luận xem bằng cách nào mà các giá trị Vinh Sơn được đưa vào lớp học này, và trong tiến trình này, gương mẫu của thánh Vinh Sơn đã tác động tới người khác ra sao?

Giới thiệu

Khi gia nhập đội ngũ giảng viên tại Đại học St. John, được thành lập bởi các thành viên Vinh Sơn vào năm 1870, tôi đã có định hướng về thánh Vinh Sơn. Qua nghiên cứu bổ sung, tôi dần dần biết thêm về người tôi tớ khiêm nhường này: một con người kiên trì và nhiệt huyết trong sứ mạng phục vụ người nghèo ở mọi cấp độ. Không như nhiều người trong thời đại chúng ta và thời đại của ngài, thánh Vinh Sơn không nhìn người nghèo bằng thái độ khinh bỉ và sợ hãi; ngài cũng không coi họ là hạng người thấp kém, cần phải tránh né và xem nhẹ. Thay vào đó, ngài yêu mến người nghèo và quý trọng họ, để cuối cùng, lòng trắc ẩn đã đưa ngài tới hành động. Ngang qua đời sống của mình, thánh Vinh Sơn đã tạo nên một sứ điệp đơn sơ nhưng đầy sức thuyết phục: rằng chúng ta phải tiếp cận và giúp đỡ những người nghèo, người thiếu thốn và những ai lâm cảnh khốn khó. Lòng trắc ẩn của ngài đối với người nghèo mạnh mẽ đến mức khiến ngài nhìn thấy Đức Giêsu Kitô trong từng khuôn mặt của họ.

Thánh Vinh Sơn đã truyền cảm hứng cho những người khác chia sẻ sứ mạng của ngài. Vào năm 1617, ngài đã thành lập Hội Bác Ái – một nhóm phụ nữ tình nguyện quy tụ và làm việc vì người nghèo. Sau đó, vào năm 1633, cùng với một góa phụ, thánh Louise de Marillac, ngài thành lập Tu Hội Nữ Tử Bác Ái với mục đích phục vụ người nghèo. Người ta nói về thánh Vinh Sơn rằng ngài “…nổi tiếng vì đã làm nên những điều kỳ diệu ở bất cứ nơi nào ngài đặt chân đến. Ngài đã tập họp được những người thiện chí theo chân ngài, lôi kéo họ hành động theo gương ngài, và an ủi những kẻ khốn khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.

Tôi tự hỏi: bằng cách nào tôi có thể được thánh Vinh Sơn truyền cảm hứng, để hăng say và nhiệt tình trau dồi tinh thần và theo đuổi sứ mệnh của ngài, ngang qua công việc của chính tôi với người nghèo, và ngang qua sứ vụ giảng dạy của tôi trong lớp học này? Để trả lời câu hỏi ấy, tôi sẽ tập trung vào cái nghèo tinh thần của con người và thảo luận về những gì đã được thánh Vinh Sơn diễn đạt qua cuộc đời và bút tích của ngài, đồng thời phác thảo thêm cách thức giải quyết loại nghèo đói đặc biệt này trong các giảng đường đại học, các nghiên cứu và trong việc phục vụ của tôi.

Nghèo về tinh thần

Khi nói đến cái nghèo, người ta thường nghĩ đến tình trạng không có khả năng tài chính đảm bảo các nhu cầu thiết yếu như lương thực, quần áo hoặc chỗ ở. Đám trẻ hốc hác cần thức ăn và chăm sóc y tế là những hình ảnh thường thấy trên truyền hình giúp chúng ta hiểu rõ về sự nghèo đói trên toàn cầu. Trong khi các mục tiêu và công việc của Vinh Sơn chủ yếu tập trung vào loại hình nghèo đói này, thì vẫn còn một loại hình khác mà ngài cũng dành nhiều sự quan tâm: nghèo về tinh thần.

Nghèo về tinh thần được đề cập qua nhiều khái niệm và áp dụng trong Kinh thánh. Mối phúc đầu tiên trong số tám mối phúc được đưa ra trong Bài giảng trên núi, “phúc thay ai có tinh thần nghèo khó”, hé lộ cho thấy một loại hình nghèo đói không nhất thiết liên quan đến của cải vật chất. Ở đây “cái nghèo” được liên kết với “tinh thần”, ám chỉ sự cơ cực, áp bức, thiếu khả năng tự vệ, đau khổ, khốn quẫn, ích kỷ, lãnh đạm, yếu đuối, phụ thuộc và địa vị thấp kém. Vì vậy, người nghèo về tinh thần có thể bao phủ toàn bộ phạm vi của khái niệm người nghèo. Ít nhất ba nhóm có thể được xác định là thuộc loại nghèo này. Nhóm đầu tiên là những người cảm thấy hoàn toàn bất lực trước cuộc sống. Các từ “người nghèo” trong ngữ cảnh này có thể gợi lên hình ảnh về những người đang nép mình hoặc thu mình trong tình trạng bất lực. Nhóm thứ hai bao gồm những cá nhân có thể không thiếu thốn vật chất và có thể không phải gánh chịu các tai họa – họ là những người thậm chí còn có thể được hưởng các đặc ân. Thế nhưng họ trở nên nghèo về tinh thần ngay cả khi vẫn dư dật của cải. Những hoàn cảnh sống buồn chán và không thấy tương lai khiến họ mất hy vọng, ngay cả khi họ vẫn có lợi thế về tiền bạc.

Trong nhóm thứ ba là những người cố tình tỏ ra dửng dưng với người khác. Họ lựa chọn chỉ phục vụ nhu cầu cá nhân chứ không phục vụ lợi ích chung. Họ có thể kiêu căng, tự khẳng định hoặc lãnh đạm. Họ có thể cảm thấy mình không mắc nợ bất kỳ ai và có thái độ hờ hững hoặc “phủi tay” khi phải giúp đỡ người khác. Họ chỉ sống để làm hài lòng bản thân. Vì họ không tạo ra đau khổ trên thế giới, nên họ cảm thấy không có bổn phận phải loại trừ nó. Những người này cũng nghèo tinh thần nhân văn. Họ nghèo ngay cả khi ở giữa những thành công vật chất và phước lành. Họ có thể được ví như người nhà giàu đã tránh sang một bên khi đi ngang qua người bị thương trên đường (Lc 10,25-37), hoặc như người Pharisêu tự mãn (Lc 18,10-14). Thánh Vinh Sơn đã kịch liệt lên tiếng chống lại những hạng người này: “Kẻ nào để cho mình bị chi phối và dẫn dắt bởi phần hạ đẳng, kẻ đó đáng được xem như con vật hơn là con người”

Tuy nhiên, vì mục đích của bài viết này, cụm từ nghèo về tinh thần sẽ được sử dụng để mô tả tình trạng bất hạnh của những con người bị hoàn cảnh vật chất và điều kiện sống lấy đi lòng tự trọng và tâm hồn. Những cá nhân này có thể đã hoặc không gây ra đau khổ cho chính bản thân. Dù trong trường hợp nào đi chăng nữa thì xã hội cũng khiến họ hiểu rằng họ bị ruồng bỏ, bị tước đoạt phẩm giá làm người. Sự nghèo nàn về mặt tinh thần này được biểu lộ trong tình trạng thiếu các yếu tố quan trọng như sự tự tin, lòng tự trọng hoặc sức mạnh nội tâm. Ngoài ra, còn có những xung đột về tâm lý và cảm xúc do không thể thay đổi được số phận.

Những người nghèo về tinh thần có thể ở mãi trong tình trạng tuyệt vọng, bị bao trùm bởi những khó khăn triền miên, thậm chí đói khát và bệnh tật. Thánh Vinh Sơn đã không bỏ quên những con người này. Ngài nhận ra rằng bất chấp cái nghèo có thể mặc nhiều hình thức thế nào đi chăng nữa, thì mỗi hình thức đều cần được nhận biết và giải quyết – và ngài sẵn sàng đáp trả tất cả các loại hình nghèo đói.

Một người nghèo về tinh thần có những đặc điểm mang dấu ấn sự tuyệt vọng và cảm giác tầm thường. Điều này thường được thấy trên khuôn mặt của những người nhập cư cảm thấy bị cô lập và vô vọng, những người cao tuổi sống trong các viện dưỡng lão, và những người chỉ đơn giản là thiếu đi ánh sao tinh thần dẫn họ vượt qua cuộc sống. Theo gương của thánh Vinh Sơn, người ta buộc phải hành động. “Phúc cho người nghèo” là một lời kêu gọi hành động.

Phục vụ cá nhân

Phục vụ người già

Trong kinh nghiệm của tôi khi làm việc với những người nghèo về tinh thần, những lời nói của Thánh Vinh Sơn luôn giúp tôi đi đúng hướng và mang lại sự trợ giúp và an ủi cho nhiều người đang đau khổ trong im lặng. Chẳng hạn, tôi thường xuyên tình nguyện tham gia phục vụ người già ở viện dưỡng lão, nhiều người trong họ đã chín mươi tuổi trở lên. Có một số người mà gia đình họ không thể đến thăm họ thường xuyên và hầu hết những người quen biết họ cũng đã qua đời. Những người này không cần lương thực, quần áo, hay chỗ ở. Môi trường xung quanh họ rất sạch đẹp. Các hoạt động xã hội hàng ngày và các lễ hội được tổ chức để giữ cho họ năng động và tỉnh táo cả về thể chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, khi tôi đến thăm họ, tôi cảm nhận được cái nghèo về tinh thần và nhu cầu nâng cao tinh thần của họ. Vì vậy, tôi làm những gì thánh Vinh Sơn có thể sẽ làm. Tôi lắng nghe – và chỉ lắng nghe. Một trong những giá trị nòng cốt mà Hiệp hội thánh Vinh Sơn Phaolô xem như thiêng thánh, đó là tình bạn, một sự trợ giúp liên vị xoay quanh việc lắng nghe. Hiệp hội được thành lập năm 1833 bởi Frederick Ozanam, một luật sư và giáo sư người Pháp tại Sorbonne. Hiệp hội lấy cảm hứng từ thánh Vinh Sơn và dấn thân trợ giúp người nghèo ở Paris. Ozanam luôn khiến mọi người cảm thấy như ở nhà khi chăm chú lắng nghe và tôn trọng ý kiến của họ.

Khi có thời giờ hướng dẫn, thánh Vinh Sơn cũng đã nêu gương kỹ năng lắng nghe và ngài nổi tiếng với khả năng chinh phục mọi hạng người. Người ta nói rằng “Ngài đón nhận tất cả những ai đến với ngài, không bao giờ vội vàng, dành toàn bộ sự quan tâm đến từng người, dù giàu hay nghèo, lớn hay nhỏ; luôn sẵn sàng lắng nghe tất cả những gì họ nói, không tỏ ra mệt mỏi hay bực bội…” Ngài biết rằng hiểu mọi người có nghĩa là lắng nghe họ cũng như lưu tâm đến những nhu cầu bề ngoài của họ. Tôi cố gắng làm theo tấm gương này bằng cách lắng nghe những người già hồi tưởng và kể lại câu chuyện về cuộc đời họ, trên xe lăn hoặc giường. Tôi thường chăm chú ngồi trên mép ghế (như tôi tin rằng thánh Vinh Sơn sẽ làm vậy), tìm hiểu về họ như là những cá nhân đặc biệt và thưởng thức những tia sáng phát ra từ khuôn mặt của họ khi họ nói chuyện. Tôi rút ra sức mạnh từ nguồn mạch khôn ngoan đang ngự trị trong tâm hồn họ. Trong những khoảnh khắc này, tôi trở thành học trò và họ trở thành người thầy của tôi – hay như thánh Vinh Sơn đã nói, họ trở thành “Chúa và chủ của chúng ta.” Ngài đã dành những tước hiệu vương giả như vậy cho những kẻ yếu đuối mỏng manh bởi ngài tin rằng họ là những người cần được phục vụ và chăm sóc một cách đặc biệt.

Thánh Vinh Sơn mong muốn phục hồi niềm hy vọng và mang lại cuộc sống mới cho những người khác, bất kể tuổi tác. Khi đến thăm những người “thầy” lớn tuổi của mình, tôi thường đặt ra những câu hỏi để cuộc gặp gỡ của chúng tôi trở thành những cuộc trò chuyện hơn là những cuộc độc thoại đơn thuần. Việc người khác lắng nghe câu chuyện của họ có ý nghĩa rất lớn đối với những người nam và nữ này; việc đó tiếp thêm sinh lực, khơi dậy niềm hy vọng và khiến họ hạnh phúc vì những người khác tìm thấy giá trị nơi cuộc sống của họ. Trong việc phục vụ những người cao tuổi, tôi cố gắng mang lại mục đích cho những người nghèo về tinh thần, nâng cao nhận thức về giá trị bản thân và trả lại cho họ niềm hy vọng và niềm vui sống. 

Cha mẹ của các trẻ em nhập cư

Hãy tưởng tượng sẽ như thế nào khi đem gia đình rời khỏi cuộc sống tốt nhất bạn từng biết và đến một đất nước mới, nơi mọi thứ đều xa lạ: con người, ngôn ngữ và văn hóa. Những người nhập cư ở mọi lứa tuổi đến Hoa Kỳ thì đều biết rằng để phát triển về mặt kinh tế xã hội, họ phải học tiếng Anh. Tuy nhiên, đây không phải là một công việc dễ dàng, đặc biệt là đối với những người lớn tuổi, những người cảm thấy bị lạc lối giữa một rừng âm thanh xa lạ và những cách diễn đạt mới. Thêm vào sự phức tạp về ngôn ngữ, nhiều người nhập cư còn không biết chữ ngay trong chính ngôn ngữ của họ và buộc phải làm những công việc có địa vị thấp ở quốc gia bản địa của họ. Kết quả là họ không chỉ nghèo về vật chất mà còn có những biểu hiện của sự phụ thuộc, dễ tổn thương và đau khổ hoặc nghèo tinh thần. Việc sống trong một đất nước mới không tự động giảm bớt vấn đề này vì họ thường phải bắt đầu lại cuộc sống và công việc của mình bất chấp rào cản ngôn ngữ.

Một số bậc phụ huynh may mắn tìm được việc làm với mức lương thấp trong các nhà máy, nhà hàng hoặc khách sạn. Họ có thể phải làm nhiều công việc khác nhau để mưu sinh. Các trách nhiệm họ phải gánh làm tiêu tốn rất nhiều thời gian và sức lực, cả về thể chất lẫn tình cảm, và các vấn đề của họ dường như không thể vượt qua được. Trong một số trường hợp, họ không có tiếng nói và phải phụ thuộc vào người khác lên tiếng giùm cho họ. Nhiều bà mẹ ở nhà chăm sóc gia đình, nhưng một số lại tìm kiếm cơ hội học tiếng Anh thông qua các chương trình miễn phí trong lúc con cái họ đi học. Tôi tình nguyện góp phần của mình trong một chương trình phụ đạo công cộng như vậy, dạy học cho bốn mươi phụ huynh là dân nhập cư muốn học tiếng Anh để có thể giúp con cái làm bài tập về nhà và trao đổi với các giáo viên của con họ. Chín mươi phần trăm số phụ huynh này đến từ Mexico hoặc Nam Mỹ và không biết chữ. Nhiều người có con tới độ tuổi đi học, đang khi những người khác phải mang theo con nhỏ đến lớp vì họ không đủ tiền thuê người trông trẻ. Do đó, lớp học của chúng tôi cũng là một vừa trẻ, tại đó, các em bé bú sữa mẹ và được thay tã trong yên lặng ở một góc dành riêng.

Khi những phụ huynh trẻ này bước vào lớp học, người ta cảm nhận được sự nghèo nàn về tinh thần trên khuôn mặt và cách thức nói năng, đi lại của họ. Họ ngập ngừng và do dự. Họ có thể học tiếng Anh không, khi mà mọi lợi thế dường như chống lại họ? Họ trông chờ người hướng dẫn như tôi để có thể tạo nên một sự khác biệt trong cuộc sống của họ. Ở đây, tôi được nhắc nhở về lời cam kết của thánh Vinh Sơn: “đối xử tử tế với tất cả mọi người… chăm sóc người nghèo, an ủi, trợ giúp họ, nâng đỡ các mục tiêu của họ … bị lay động bởi những lo toan và đau khổ của những người bên cạnh chúng ta.”

Kết quả là, các lớp học tiếng Anh của tôi rất sống động. Tôi hướng dẫn học viên của mình bằng nhiều cách, cân nhắc các kỹ năng và năng lực của họ, và tôi tạo được mối dây liên kết với họ bằng cách để họ chia sẻ câu chuyện của họ. Tôi sử dụng tiếng Tây Ban Nha không tốt lắm của mình để cho họ thấy rằng bản thân tôi không hoàn hảo, rằng tôi cũng mắc sai lầm. Tôi tạo ra một lớp học bao trùm bởi bầu khí chào đón, thừa nhận và ủng hộ lẫn nhau. Các học viên được phép khóc, cười và nói về kinh nghiệm của họ. Sau giờ học, tôi sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc của họ. Các câu hỏi không phải lúc nào cũng liên quan đến lớp học; chúng có thể tập trung vào các vấn đề như nhập cư, việc làm và con cái. Vì thánh Vinh Sơn đã vượt lên trên các bổn phận được ấn định cho mình khi đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân, nên tôi cũng ép mình phải làm như vậy. Tấm gương của thánh Vinh Sơn nhắc nhở chúng ta rằng nếu chúng ta muốn phục vụ người nghèo về tinh thần, thì điều quan trọng nhất là dành thời giờ cho họ và sống gần gũi với họ.

Nghiên cứu

Kinh nghiệm của tôi trong việc huấn luyện nhà giáo đã hướng tôi tập trung nghiên cứu vào cảm thức sư phạm và các phương pháp đào luyện giáo viên cho những người học ngôn ngữ thứ hai. Sự tập trung này phù hợp và đặt nền tảng trên ơn gọi Vinh Sơn là đáp ứng các nhu cầu về tình cảm và tâm lý của trẻ em nhập cư trước khi cố gắng đáp ứng nhu cầu về ngôn ngữ của chúng. Điều đó cũng được phản ánh trong niềm tin cốt lõi của Đại học DePaul là “tôn trọng cá nhân, phục vụ người nghèo, liên đới nhân loại và trung thành với niềm tin rằng việc trao ban bản thân sẽ giúp thế giới trở nên tốt đẹp hơn.”  

Thông qua các bài báo, các thuyết trình hội thảo và trao đổi chuyên đề trong và ngoài nước, tôi đặt vấn đề về cảm thức sư phạm lên hàng đầu nhằm nâng cao sự hiểu biết và thấu hiểu giữa các nhà giáo, những người dạy dỗ các học sinh với ngôn ngữ và văn hóa đa dạng. Hy vọng rằng nghiên cứu của tôi sẽ dẫn đến sự cải thiện tính nhạy cảm về mặt cơ cấu và thúc đẩy sự phong phú về mặt tinh thần cho cả học viên và giáo viên.

Trong lớp học

Bởi vì khi nhập học, các trẻ em nhập cư không thông thạo tiếng Anh, nên trong lớp, chúng thường cảm thấy bất lực và dễ bị tổn thương. Nhiều bậc phụ huynh của chúng cũng trải qua cảm giác tương tự, vì thiếu hụt kỹ năng tiếng Anh. Hệ quả là họ không thể giúp con cái làm bài tập về nhà, trao đổi với giáo viên và tham gia vào việc giáo dục của con cái.

Với tư cách là giáo sư của trung tâm Dạy tiếng Anh cho người nói các ngôn ngữ khác (TESOL-Teaching English to Speakers of Other Languages), tôi xen vào các lớp học của riêng tôi các mục tiêu và giá trị Vinh Sơn. Những giá trị như sự tôn trọng, phẩm giá con người, tính nhạy cảm và khả năng thích ứng với xã hội… dễ dàng tìm thấy chỗ đứng trong phương pháp sư phạm và trong chương trình giảng dạy TESOL. Các học viên của tôi không chỉ tìm hiểu tầm quan trọng của việc hướng dẫn các học sinh nhập cư một cách hiệu quả, mà họ còn thấy được những mối bận tâm đi kèm. Tôi làm điều này thông qua các bài viết và các thảo luận về những nghiên cứu đặc trưng của người nhập cư, và bằng cách giao các công việc cho học viên, chẳng hạn, phỏng vấn những người làm việc với người nhập cư trong các môi trường giáo dục khác nhau. Đôi khi, học viên cũng được giao cho những công việc giả tưởng giúp họ có cảm thức giống như các giáo viên đang trong khóa huấn luyện hoặc đang phục vụ. Đôi khi, tôi còn lồng ghép văn học thiếu nhi vào trong các lớp của mình nếu tôi thấy rằng điều đó khuyến khích sự bén nhạy về ngôn ngữ và văn hóa.

Dần dà, các học viên của tôi bắt đầu nhận ra rằng việc giảng dạy không chỉ nhắm tới điểm số. Cũng như thánh Vinh Sơn đã quan tâm đến con người toàn diện, các học viên của tôi nhận thức được rằng mỗi học sinh nhập cư phải được nhìn nhận một cách toàn diện. Chẳng hạn, một trong những học viên của tôi, khi biết rằng học sinh của cô ấy sống với bà ngoại đã tám mươi ba tuổi, và bà không hề biết tiếng Anh, cô đã tình nguyện đến trường sớm hơn bốn mươi lăm phút mỗi ngày để giúp đỡ đứa trẻ kia làm bài tập về nhà. Bằng cách này, cô đã thực hành nếp sống Vinh Sơn ngay trong lớp học của mình. Cô ấy đã vượt xa hơn những gì được yêu cầu. Thánh Vinh Sơn sẽ cổ võ việc tìm hiểu môi trường gia đình của những học sinh nhập cư và sẵn sàng trợ giúp chúng. Việc này thể hiện lòng bác ái và sự quan tâm – làm bất cứ điều gì cần thiết để giúp học sinh đạt đến trình độ thông thạo tiếng Anh đủ để thành công trong học tập và trở thành những công dân hữu ích cho thế giới.

Đây chính là con đường Vinh Sơn. Giáo dục trẻ em nhập cư không chỉ là một công việc; đó còn là làm cho chúng cảm thấy được chào đón trong một cộng đồng mới. Đó là việc đồng cảm với chúng và các bậc phụ huynh của chúng, và tìm cách giúp chúng thích nghi với thế giới mới một cách dễ dàng nhất. Đó là việc nắm bắt các nền văn hóa và bản sắc của chúng. Đó là việc sẵn sàng tỏ ra bén nhạy và e thẹn khi gặp gỡ những người mới đến từ những đất nước, văn hóa và ngôn ngữ xa lạ.

Trên thực tế, một lớp tiểu học giàu tính Vinh Sơn có thể như thế này: một tấm biển chào mừng trên cửa với tên hoặc các bức ảnh của từng học sinh, các từ ngữ và đồ vật biểu trưng cho ngôn ngữ và văn hóa bản địa của họ, các tác phẩm của học sinh được trưng bày trong lớp, và áp phích mô tả các giá trị Vinh Sơn với những khẩu hiệu như “Hãy lắng nghe nhau”, “Hãy chăm sóc nhau” và “Hãy tôi tôn trọng nhau.” Một nhà giáo được đào tạo theo phương pháp Vinh Sơn sẽ thường xuyên đưa ra các nhận xét mang tính khích lệ như “Làm tốt lắm”, “Tôi biết em có thể làm được”, “Chúng tôi tôn trọng tất cả mọi người trong lớp học này”, “Mọi người đều có khả năng thành công”, “Còn rất nhiều tài năng trong lớp học này” và “Này Juan, Peng-Li vừa đến Hoa Kỳ ba ngày trước, em có sẵn lòng trở thành bạn thân của bạn ấy không?” Lớp học Vinh Sơn sẽ cảm thấy an toàn, ấm áp và thoải mái. Giáo viên sẽ không la hét hoặc tỏ ra thất vọng khi các học sinh nhập cư của họ không thể nói tiếng Anh hoặc không thể hiện sự tiến bộ đáng kể sau hai tháng. Đúng hơn, họ vẫn duy trì sự khích lệ, tích cực và lạc quan. Họ sẽ nhận ra rằng học sinh của họ cần có thái độ tích cực để phát triển và chịu đựng rủi ro.

Để học viên của tôi tiếp cận được các giá trị Vinh Sơn, tôi khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động mang lại trải nghiệm về cuộc sống trong một nền văn hóa mới. Chẳng hạn, tôi cho họ tiếp cận những cuốn sách bằng tiếng Yiddish, tiếng Do Thái và tiếng Nhật, đó là những cuốn sách không được đọc từ trái sang phải như sách tiếng Anh. Để làm quen với hệ thống chính tả hoàn toàn mới, họ phải chép tay các bản văn bằng chữ Trung Hoa, Hàn Quốc hoặc Ả Rập. Sau đó, một cuộc thảo luận chắc chắn sẽ diễn ra, và trong đó, họ nói về những thất bại của mình khi đọc và viết bằng một thứ ngôn ngữ không quen thuộc, và điều này rất hữu ích trong việc giúp các giáo viên đồng cảm với những học sinh phải dùng ngôn ngữ thứ hai, đồng thời hiểu rõ hơn kinh nghiệm sống của chúng. Trong suốt cuộc đời của mình, thánh Vinh Sơn đã cho thấy vai trò của việc chia sẻ cuộc sống và kinh nghiệm của những người mà chúng ta đang phục vụ. Tôi mong muốn rằng các học viên của tôi sẽ không chỉ ghi nhớ các nguyên tắc Vinh Sơn mà còn áp dụng chúng một cách sáng tạo và có trách nhiệm trong các lớp học của chính họ.

Trong một số lớp học của tôi, học viên được yêu cầu viết nhật ký để theo dõi sự phát triển của bản thân và suy ngẫm về các vấn đề nảy sinh trong học kỳ. Vào cuối học kỳ, tôi thu các nhật ký và đọc chúng để xem liệu thái độ của học viên có thay đổi không. Các học viên của tôi có cái nhìn sáng suốt hơn không? Họ có nhận thức rõ hơn về tính nhạy cảm trong nghề giáo không? Họ có sẵn sàng mô phỏng các giá trị Vinh Sơn trong lớp học của chính họ không? Đây là một số nhận xét từ ba bài viết của học viên:

“Trong lớp học, chúng tôi được yêu cầu suy nghĩ về quan điểm của chúng tôi liên quan đến việc sửa lỗi… Người học ngôn ngữ mới là một người ở trong một hoàn cảnh đặc biệt. Mỗi người đều khác nhau, và mỗi người phải được đối xử khác nhau… Tôi nghĩ tất cả nằm ở chỗ nhận thức được những gì người đó đang trải qua và nhạy bén với những nhu cầu cụ thể của họ.”

Điều rõ ràng đối với tôi trong cuộc thảo luận tại lớp của chúng tôi ngày nay là những người không có năng lực thì không nhận được sự tôn trọng. Tôi chưa bao giờ nghĩ về nó trước đây. Tôi chưa bao giờ làm như vậy. Vì thế, tôi nghĩ về các học sinh nhập cư của mình và cha mẹ của chúng và tìm hiểu lý do tại sao ở trường của tôi, chúng không được các giáo viên, các cán bộ và ban giám hiệu tôn trọng. Họ không có tiếng nói bởi vì họ không biết tiếng Anh. Bây giờ, tôi nhận ra rằng tôi cần phải trở thành tiếng nói cho các học sinh của tôi và phụ huynh của chúng.

Khi làm việc để liên tục củng cố ngôn ngữ cho các học sinh trong lớp học, chúng tôi, những nhà giáo, không chỉ bồi dưỡng kiến thức cho họ, mà còn cho mình cơ hội tìm hiểu từng học sinh đang ngồi trước mặt chúng tôi, điều này cũng cho phép chúng tôi học hỏi từ họ để việc học tập thực sự trở thành một trải nghiệm đòi hỏi sự cộng tác của mọi người. Tôi sẽ ghi nhớ điều này.

Rõ ràng là vào cuối khóa học, các học viên của tôi đã tiến bộ và tỏ ra là những nhà giáo nhạy bén hơn. Chẳng hạn, họ giải thích rằng họ thấy phẫn nộ khi chứng kiến các trẻ em nhập cư bị giáo viên của chúng ngược đãi, và rằng họ phải lên tiếng bênh vực bọn trẻ trong các cuộc họp phân khoa, các cuộc họp phụ huynh và các diễn đàn khác. Điều này cho thấy rằng những hạt giống Vinh Sơn được gieo trồng trong lớp học của tôi đã bén rễ. Thời gian sẽ cho thấy những hạt giống đó mang lại kết quả nào và chúng đụng chạm đến cuộc sống của những người trẻ này cũng như cuộc sống của những học sinh của họ ra sao. Khi tổ chức các cuộc hội thảo phát triển chuyên đề và quan sát các lớp học trên khắp thành phố New York, tôi thường tình cờ gặp lại các học viên cũ của mình và rất vui khi thấy họ thể hiện phong cách Vinh Sơn trong việc quan tâm và thể hiện sự đồng cảm nơi công việc của họ. Thánh Vinh Sơn đã ghi dấu ấn của mình trong các lớp học của họ.

Kết luận

Nhiều người trong thế giới chúng ta phải chịu đựng cái nghèo về tinh thần. Con tim và cuộc sống của họ vụn vỡ. Họ ở độ tuổi khác nhau, vị trí kinh tế xã hội khác nhau, nguồn gốc ngôn ngữ và văn hóa cũng khác nhau. Những con người này đi ngang qua chúng ta mọi lúc, nhưng chúng ta có thể không nhận ra bởi lẽ họ vẫn giàu có, ăn mặc sang trọng, và thậm chí vẫn tươi cười. Bề ngoài mọi thứ có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong lại là những tâm hồn đã đang bị hoàn cảnh gặm nhấm. Họ có thể bị phớt lờ và coi thường.

Để đáp trả hình thức nghèo đói này, chúng ta được mời gọi chia sẻ nhãn quan của thánh Vinh Sơn Phaolô. Ngài nhắc chúng ta rằng những con người này, mặc dù nghèo về tinh thần, nhưng cũng là một phần của thân thể và vương quốc của Chúa Kitô. Sự phục vụ mà chúng ta dành cho họ phải phản chiếu chân lý ấy. Khi phục vụ những người nghèo về tinh thần, dù trong các viện dưỡng lão hay trong các cơ sở giáo dục, chúng ta đều được mời gọi đón nhận những con người nhỏ bé, những kẻ sống bên lề, những người bị tổn thương và những kẻ cô thân cô thế. Họ phải được tôn trọng. Khi làm như vậy, chúng ta giải quyết một hình thức nghèo đói ít rõ ràng hơn, nhưng cuối cùng lại nghiêm trọng không kém sự cùng cực về vật chất. Vì vậy, hãy giải quyết vấn đề này với sự khích lệ từ chính trái tim chúng ta và từ tinh thần của thánh Vinh Sơn. Ngài đã dạy rằng: “Lòng bác ái thực sự không chỉ dừng lại ở việc phân phát của bố thí, nhưng còn là giúp những kẻ đáng khinh lấy lại được phẩm giá và sự tự lập của họ.” 

Chuyển ngữ: Lm. Fx. Đặng Tiến Đức