Căn Tính Của Người Nữ Tử Bác Ái: Các Yếu Tố Đặc Trưng Và Khác Biệt

Đăng ngày: 02/02/2023

 Người Nữ Tử Bác Ái Sống Như Thế Nào Trong Thế Giới Ngày Nay?

 NTBA Wivine Kisu

NỘI DUNG

Giới thiệu

I. Căn Tính Mặc Khải Thiên Chúa

A. Những người phụ nữ muốn chia sẻ kinh nghiệm của thánh Vinh Sơn Phaolô là ai?

1. Họ có một cái tên: Nữ Tử Bác Ái.

2. Họ có một lựa chọn: sống trọn vẹn phép Thánh tẩy của họ trong và qua việc phục vụ người nghèo.

   2.1 Được trao hiến cho Thiên Chúa (hoàn toàn thánh hiến)

   2.2 Trong cộng đoàn (được kêu gọi và tập hợp)

   2.3 Vì sự phục vụ của Đấng Kitô trong người nghèo (tiếp tục sứ mệnh của Đức Kitô)

      2.3.1. Con mắt đức tin

      2.3.2. Một tinh thần Phúc âm về sự khiêm tốn, đơn sơ và bác ái

      2.3.3. Tinh thần người phục vụ

      2.3.4. Tính thực tiễn của cuộc sống khi bước theo Chúa Giêsu

B. Căn tính của người Nữ Tử Bác Ái trong Giáo hội

1. Hiệp hội Đời sống Tông đồ

   1.1 Không có lời khấn dòng

   1.2 Tính tại thế

2. Tính cách Quốc tế và Truyền giáo

C. Các đặc điểm đặc trưng khác

1. Một Tu hội có Bề trên Tổng quyền cũng là Bề trên Tổng quyền của Tu Hội Truyền Giáo

2. Một Tu hội với Đức Maria như là “người Mẹ duy nhất”

II. Sống căn tính ngay hôm nay như thế nào?

1. Nữ Tử Bác Ái trong thế giới

2. Nữ Tử Bác Ái không mang tinh thần thế gian

Giới thiệu

Ngày nay, các ý thức hệ duy lý và toàn trị đã sụp đổ, và những bước tiến lớn về khoa học và công nghệ đang được thực hiện. Điều này chắc chắn sẽ mang lại cho thế giới của chúng ta những khả năng to lớn. Những tiến bộ về vật chất, đã mang lại sự cải thiện cho các điều kiện của con người trong các lĩnh vực khác nhau như y tế, giáo dục và thực phẩm, cũng như một sự cởi mở hơn cho tính đạị đồng và đoàn kết của hành tinh chúng ta, đặc biệt là trong thời kỳ thảm họa. Tuy nhiên, chúng ta cũng chứng kiến sự chênh lệch ngày càng lớn hơn và sâu sắc hơn, giữa thành phần giàu có hơn của nhân loại và thành phần nghèo hơn, nơi bệnh tật hoành hành, nạn đói, AIDS và những hậu quả của chúng đối với xã hội, đặc biệt là đối với những người ít được bảo vệ nhất.

Hơn nữa, sự phát triển của khoa học nhân văn, đã mang đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về con người, trong những phức tạp của chính nó. Trong khi xã hội thừa nhận giá trị của tự do, lòng tự trọng và nhân quyền, chúng ta không may cũng là nhân chứng cho sự gia tăng của bạo lực dưới các hình thức khác nhau: chiến tranh, tan vỡ gia đình, loại trừ cả con người và một số nhóm nhất định.

Đối mặt với những điều thách đố được đề cập ở trên, tôi cho rằng – do khoa học và công nghệ mang lại, chúng ta là một phần của sự xuất hiện của nền văn hóa giải trừ Kitô giáo và hiện tượng tục hóa ở mọi cấp độ, cùng với sự phát triển của mọi loại giáo phái. Điều này mang lại cho xã hội một thuyết tương đối nhất định, tôn thờ phù du và thiếu các điểm mốc, thậm chí dẫn đến là tuyệt vọng.

Nhiều thực tế ảnh hưởng tích cực và / hoặc tiêu cực và ảnh hưởng đến cuộc sống của các Nữ Tử Bác Ái. Do đó, căn tính của người Nữ Tử Bác Ái, rõ ràng và dễ hiểu tại một thời điểm, dường như, về mặt nào đó, đang trở nên dễ nhầm lẫn và viển vông, do sự thiếu thống nhất giữa các khía cạnh khác nhau:

  • Hoàn toàn được trao hiến cho Thiên Chúa,
  • Đời sống cộng đoàn,
  • Phục vụ người nghèo và những lời khấn “mang lại cho việc phục vụ của họ đặc tính cụ thể của nó.”
  • Thế rồi, điều quan trọng là phải xác định rõ ràng lại bản thân mình là ai, để luôn có thể đáp ứng một cách trung thành, mạnh dạn và sáng tạo cho sứ mệnh của các Nữ Tử Bác Ái trong hoàn cảnh ngày nay.

Ngày nay, với chủ đề “hội nhập đặc sủng trong một thế giới đang thay đổi” từ Tổng Đại Hội trước đây, chúng ta đang ở một bước ngoặt trong cuộc đời, để chuẩn bị cho việc sửa đổi Hiến Pháp và Quy chế của chúng ta. Sự sửa đổi này là để “hồi sinh” con người chúng ta, với tư cách là Nữ Tử Bác Ái, tôi tớ của người nghèo, để trở nên “sống” hơn là “làm”.

I. Căn tính mặc khải Thiên Chúa

“Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Si-môn Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 13-17).

Trước câu hỏi của Đức Kitô, các tông đồ trả lời theo những gì họ đã nghe nói về Chúa Giêsu. Nhưng câu hỏi của Chúa Giêsu hướng đến họ “còn anh em, anh em nói thầy là ai? Người ta nói thầy là ai?” Chúa Thánh Thần, Đấng đến để trợ giúp những yếu đuối và bất lực của nhân loại, giúp Phêrô tuyên xưng trong đức tin: “Thầy là Đấng Mêsia, Con Chúa Trời Hằng Sống!” Chúa Thánh Thần đã tiết lộ cho Phêrô và các tông đồ về danh tính thật của Chúa Giêsu. Danh xưng “Đấng Mêsia” đồng thời cho thấy danh tính và sứ mệnh của Chúa Giêsu.

Nhưng, họ phải chờ đợi sự phục sinh của Chúa và đặc biệt là Lễ Ngũ Tuần, sự xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, trước khi các tông đồ và môn đệ biết được nội tại và hiểu được chiều dài, chiều rộng và chiều sâu của danh tính Đức Kitô: Đấng Mêsia, Đấng được xức dầu, Đấng được sai đến bởi Chúa Cha, và Con của Thiên Chúa.

Chú ý đến các sự kiện và Thánh Thần cuả Thiên Chúa liên tục hành động trong các sự kiện, thánh Vinh Sơn Phaolô và thánh Louise de Marillac đã khám phá ra rằng, Chúa Giêsu Nhập thể, Đấng mang thân phận con người, Đấng Mêsia, là: Đấng tôn thờ Chúa Cha, Người Tôi Tớ và Người rao giảng Tin Mừng. Các ngài cảm thấy bị thôi thúc bởi ngọn lửa bác ái phát xuất từ ​​quà tặng hoàn toàn của Chúa Kitô dành cho Chúa Cha, để cứu rỗi nhân loại: “tình yêu Chúa Kitô bị đóng đinh thúc bách chúng ta.” Vì vậy, thánh Vinh Sơn và Louise đã cảm nghiệm được căn tính của Chúa Giêsu, trong cuộc Nhập thể cứu chuộc của Người. Chính Chúa Giêsu này, mà các ngài đề xuất cho những ai, sẽ tự nguyện hiến mạng sống của họ cho chính nghĩa của Ngài, hãy kín múc từ Ngài bản sắc riêng của họ.

A. Những người phụ nữ muốn chia sẻ kinh nghiệm của thánh Vinh Sơn Phaolô là ai?

1. Họ có một cái tên: Nữ Tử Bác Ái

Nếu một cái tên thể hiện danh tính của một người, nó cũng tiết lộ sứ mệnh và lối sống của người đó, cách gọi Nữ Tử Bác Ái cũng giống như vậy. Danh tính này được mặc cho họ, trong những lời khuyên bởi thánh Vinh Sơn Phaolô, trong câu trả lời mà họ trình bày cho giám mục, nếu họ được hỏi, họ là ai và họ có phải là tu sĩ hay không?: “Hãy nói với Đức giám mục rằng, chị em là các Nữ Tử Bác Ái đáng thương, người đã dâng hiến bản thân mình cho Thiên Chúa, để phục vụ người nghèo” (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 474).

Vì căn tính này có nguồn gốc từ cuộc sống giống như Thiên Chúa, nên Thánh Vinh Sơn không ngừng nhắc nhở các chị em về cội nguồn cuộc sống của họ, mà trên đó, họ phải luôn xây dựng và phù hợp với sự tồn tại của mình, để xứng đáng với tên gọi mà họ mang danh: “chị em sẽ nhớ đến tên của những Nữ Tử Bác Ái mà chị em mang danh, và sẽ cố gắng làm cho mình xứng đáng với nó, bằng tình yêu thánh thiện, mà chị em sẽ dành cho Thiên Chúa và người lân cận của chị em” (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Aí, 1034).

Và một lần nữa: “… khi chị em dâng mình cho Thiên Chúa để phục vụ người nghèo … chị em đã nhận được danh xưng mà Thiên Chúa đã ban cho chị em. Vì vậy, chị em nên sống phù hợp với cái tên mà chị em mang danh, vì chính Chúa đã đặt nó cho Tu hội, vì nó không phải là do bà Le Gras, hay cha Portail, và chắc chắn không phải từ tôi, người đã gọi chị em là Nữ Tử Bác Ái. Hãy quan sát để biết rằng chính những người, mà đã nhìn thấy những gì chị em đang làm và phục vụ, khi những người nghèo đầu tiên mà chị em phục vụ, đã đặt cho chị em cái tên này, cái tên này vẫn là một cái tên phù hợp nhất với cách sống của chị em” (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Aí, 1045).

Danh xưng này, được nhận từ Chúa qua phát ngôn của con người, diễn tả và cho thấy bản chất sự hiện hữu của Thiên Chúa: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4: 7-8). Do đó, tên này đòi hỏi Nữ Tử Bác Ái phải sống, theo cách mà chị ấy phản ánh tình yêu thương của Thiên Chúa, dành cho thế giới và cho người nghèo. Bởi vì “… khi nói Nữ Tử Bác Ái … nghĩa  là nói đến những ái nữ của Thiên Chúa” (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Aí, 741).

Chính từ cái tên đẹp đẽ này là Bác ái, là Tình yêu, tất cả đều đón lấy và đón nhận sự tồn tại (cuộc sống) theo nghĩa sâu xa nhất của từ này. Chỉ trong tên này, tất cả các điều răn được tóm tắt và làm phát sinh sự sống vĩnh cửu. “này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống ”(Lc 10, 25 -28).

Tình yêu thương này của Thiên Chúa, là trung tâm của Tin Mừng về sự cứu rỗi do Chúa Giêsu Kitô ban cho, một tình yêu mãnh liệt đã chiếm trọn trái tim của Thiên Chúa làm người, một tình yêu mà Ngài muốn ban tặng cho thế gian, một tình yêu khiến Ngài nói: “Tôi đã đến để mang lửa đến trái đất, và tôi ước gì lửa ấy bùng cháy cháy lên!” (Lc 12, 49). Nơi Chúa Giêsu Kitô, tình yêu nhập thể, sự sống sung mãn được ban tặng cho nhân loại: “Tôi đến để chúng được sống và được sống dồi dào” (Ga 10,10). Trong tên gọi Nữ Tử Bác Ái ẩn chứa một sứ mệnh mà Thiên Chúa, trong Con của Người, mong muốn để cứu nhân loại chúng ta. Thật vậy, chính nhờ tình yêu đối với nhân loại, Thiên Chúa đã làm người, để nâng chúng ta lên phẩm giá con cái Thiên Chúa, điều không thể làm cho nhân loại tội lỗi, ngoại trừ bởi tình yêu“không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).

Hiện thân của một người Nữ Tử Bác Ái phải tương xứng với tình yêu này. Thánh Vinh Sơn đã thúc giục các chị em bằng những lời này: “Hãy cho người nghèo tất cả của cải, nếu chị em không có bác ái, chị em đã chẳng làm gì cả; không, ngay cả khi chị em đã hy sinh mạng sống của mình. Hỡi các chị em yêu dấu của tôi, chúng ta phải noi gương Con Thiên Chúa, Đấng đã  làm mọi thứ, để tỏ lộ tình yêu mà Ngài dành cho Thiên Chúa là Cha của Ngài. Và vì vậy, trong hiện thân của chị em, khi đến với hiệp hội bác ái, chị em nên đến đấy hoàn toàn vì tình yêu và niềm vui của Chúa và, miễn là chị em vẫn ở trong đó, mọi hành động của chị em nên hướng đến cùng một tình yêu”(Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 17-18).

Theo lời của Mẹ Guillemin, một người Nữ Tử Bác Ái phải “được thấm nhuần bởi lòng bác ái và xem xét lại thái độ bên trong và bên ngoài của mình để điều chỉnh chúng cho phù hợp với bác ái. Dù ở đâu, chị ấy phải là ‘biểu hiện của lòng bác ái.’ Việc làm chứng cho lòng bác ái là lời ngôn sứ của ngày nay. Cái nhìn của chị ấy, hành động của chị ấy, tất cả con người chị ấy, phải là biểu hiện của tình yêu, đó là sự sống để giao tiếp với cộng đoàn của chị ấy và với những người nam nữ mà Chúa gửi đến cho chị ấy.”

Vì Nữ Tử Bác Ái được sinh ra bởi Tình Yêu Thiên Chúa, nên chị ấy được kêu gọi, theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này, là chứng nhân của lòng bác ái, của tình yêu thương. Đó là một câu hỏi về sự sống còn của chị ấy với danh nghĩa là Nữ Tử Bác Ái.

2. Họ có một lựa chọn: sống trọn vẹn phép Thánh tẩy của họ trong và qua việc phục vụ người nghèo.

Ơn gọi của một Nữ Tử Bác Ái bắt nguồn từ việc lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy được sống trọn vẹn nhất.“trong đó, đồng thời là sự thân mật với Ba Ngôi Thiên Chúa và gần gũi với nhân loại, sự sống này phải là bình chứa trong suốt của tình yêu luôn cháy bỏng trong tâm hồn của người con cái Thiên Chúa” (Huấn thị về Lời khấn của các Nữ Tử Bác Ái, trang 21).

Toàn bộ cuộc đời của các Nữ Tử Bác Ái nằm ở trung tâm của chiều kích Bí tích Rửa tội và Ba Ngôi này. Họ cố gắng sống sứ điệp Tin Mừng một cách triệt để mà Chúa Kitô mong muốn, khi Ngài mời gọi người thanh niên giàu có: “… Hãy đi, bán những gì anh sở hữu và chia tiền cho người nghèo, … rồi hãy đến, theo tôi” (Mt 19:21, Mc 10:21, Lc 18:22). Ơn gọi theo Chúa Kitô, có tất cả ý nghĩa của nó từ đời sống Bí tích Rửa tội này, khiến chúng ta trở thành những người đồng thừa kế với Chúa Kitô và những người kế vị sứ vụ của Ngài.

Đối với thánh Vinh Sơn và thánh Louise, để trở thành “những người Nữ Tử Bác Ái tốt”, thì người đó, trước hết và trên hết, là những “Kitô hữu tốt”. Đời sống Kitô hữu cho chúng ta một sự lựa chọn dứt khoát: “đó là có, nói có, và không, nói không!” Đó là lý do mà các Đấng sáng lập đã nhấn mạnh vào sự giống nhau phải tồn tại với Chúa Kitô: “Ai nhìn thấy cuộc đời của một Nữ Tử Bác Ái, thì sẽ thấy giống như cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô vậy.”

Hiến pháp Tu Hội thể hiện rõ ràng và đưa ra cả nội dung và những điều cốt yếu của căn tính của người Nữ Tử Bác Ái là gì: “Những người Nữ Tử Bác Ái, trung thành với phép Rửa tội của họ và để đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa, hiến dâng mình hoàn toàn và trong cộng đoàn cho sự phục vụ của Đức Kitô nơi anh chị em của họ, những người nghèo, trong tinh thần khiêm nhường, đơn sơ và bác ái truyền giáo.”

Chính một tình yêu đã truyền cảm hứng và hướng dẫn sự chiêm ngưỡng và phục vụ của họ; nhờ đức tin, họ biết rằng Thiên Chúa đang chờ đợi họ nơi những người đau khổ. Sự hiệp nhất năng động trong đời sống của họ được diễn tả trong lời của Thánh Vinh Sơn: “Các chị em là những Nữ Tử Bác Ái đáng thương, những người đã hiến thân cho Thiên Chúa để phục vụ người nghèo.”

Các yếu tố đặc trưng (thiết yếu hoặc đặc biệt) trong danh tính của chúng ta xuất hiện rõ ràng từ điều khoản này trong Hiến pháp của chúng ta:

2.1 Được trao hiến cho Thiên Chúa (hoàn toàn thánh hiến)

Món quà tự thân mà các Nữ Tử Bác Ái dâng lên Thiên Chúa, được tìm thấy trong việc bước theo Chúa Kitô, Đấng, được Chúa Cha sai đến với tư cách là Người Tôi Tớ của kế hoạch yêu thương của Ngài và là người rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, không thể hoàn toàn hướng về Cha với tư cách là người yêu tha thiết, cho đến khi kế hoạch này về tình yêu của Thiên Chúa và loài người đã hóa thành nhục thể. Tất cả cuộc đời của Ngài là một hành động liên tục của mối quan hệ, giao tiếp và hiệp thông với Cha của mình, đến mức mà tất cả những gì Ngài nói hoặc thực hiện, Ngài đều làm với tư cách là Con,“tôi và cha tôi là một” (Ga 10,30). “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”(Ga 12, 49-50).

Chính Chúa Kitô, Đấng yêu mến Chúa Cha, được thánh hiến bởi Thần Khí, và hoàn toàn mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa Cha, Đấng đang thi hành sứ mệnh của Người Tôi Tớ và Người Loan Báo Tin Mừng. Trong mối quan hệ này với Chúa Cha qua lời cầu nguyện của Người (x. Lc 9:18, 28; 11: 1; Mc 1:35), Chúa Giêsu làm cho ý muốn của Chúa Cha về sứ mệnh và của nuôi dưỡng Người “Lương thực của tôi là làm theo ý muốn của Đấng đã sai tôi và hoàn thành công việc của Người” (Ga 4:34).

Theo gương của Đức Kitô, tất cả trong đời sống của Nữ Tử Bác Ái đều mang ý nghĩa ở chỗ “được trao hiến hoàn toàn,” hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa. Nữ Tử Bác Ái tồn tại vì một sứ mệnh cụ thể: phục vụ Chúa Kitô nơi người nghèo, lý do cuối cùng cho sự tận hiến này. Chỉ nơi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và chính Thiên Chúa, mới được tìm thấy điểm khởi đầu và điểm đến trong việc phục vụ người nghèo. Thánh Vinh Sơn đã tập trung mọi suy nghĩ của mình vào Chúa Kitô, như là hình mẫu tối thượng để nhìn vào và noi gương.

“Chúa Kitô là quy luật của các Nữ Tử Bác ái. Họ cố gắng noi gương Ngài như những Đấng Sáng lập của họ đã nhận thấy Ngài được mạc khải trong Kinh thánh: Đấng tôn thờ Chúa Cha, Đấng phục vụ Kế hoạch yêu thương của Ngài, Đấng rao giảng Tin Mừng cho Người nghèo”(HP. 1, 5).

Trong việc tạo dựng mối quan hệ thực sự với Đức Kitô, Nữ Tử Bác Ái có thể làm như Đức Kitô đã làm. Tin Mừng của Ngài, lời nói của Ngài phải luôn tạo nên quy luật của cuộc sống và ánh sáng của Nữ Tử Bác Ái. Tất cả cuộc đời của chị ấy phải tập trung vào Chúa Kitô, để được đồng nhất với Người.

Như được bày tỏ với chúng ta trong Tông huấn Vita Consecrata, đòi hỏi sâu xa của lời kêu gọi hoán cải và thánh thiện hoàn toàn, khiến tôi tớ người nghèo phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa, trên hết, qua việc từ bỏ bản thân để sống hoàn toàn cho Chúa, để Thiên Chúa có thể ở trong tất cả mọi người. Được kêu gọi để chiêm ngưỡng và làm chứng cho khuôn mặt được biến đổi của Chúa Kitô, Nữ Tử Bác Ái cũng được mời gọi đến một hiện hữu “được biến đổi” (xem Vita Consecrata, 35).

Sự hiện hữu như thế chỉ có thể thực hiện được, trong trường hợp người Nữ Tử Bác Ái chấp nhận sống trong tình cảm sâu xa với Chúa Kitô, đi vào sự hiệp thông thân mật và vui tươi với Ngài. Chỉ khi cho phép mình được Thánh Linh hướng dẫn, thì người ta mới có thể tiến bước trên con đường này và ngày này qua ngày khác, trở thành một người “mang danh Đức Kitô, nối dài trong lịch sử sự hiện diện đặc biệt của Chúa Phục Sinh” (Vita Consecrata, # 19). Do đó, chị ấy bước vào kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa, đó không phải là một lý tưởng trừu tượng, hay một Thiên Chúa xa xôi, nhưng trong kinh nghiệm về một Thiên Chúa sống động, trong Đức Giêsu Kitô.

Nữ Tử Bác Ái không thể ở lại và nhận ra ơn gọi và sứ mệnh của mình, nếu không có một sức sống thiêng liêng giúp chị ấy chấp nhận Phúc âm, như một điều tuyệt đối trong tính triệt để của nó. Lời Chúa mà Thánh Phaolô nói với chúng ta: “ở gần anh chị em, trên môi miệng và trong trái tim anh chị em”, phải thu hút chị ấy bằng cách chăm chú lắng nghe và suy ngẫm để hiểu nó, đến mức chị ấy biến đổi sự chú ý, hành động và cuộc sống của chị ấy. Chị ấy phải say mê với phúc âm và biến nó thành nơi gặp gỡ Đức Kitô để trở nên giống như Ngài. Ở đó, chị ấy tìm thấy sức mạnh cho cuộc sống và chứng nhân ​​chị ấy được kêu gọi, để mang đến thế giới đầy thương tích này.

Nếu Thiên Chúa không ở trung tâm cuộc đời của Nữ Tử Bác Ái, nếu cuộc đời của chị ấy  không được nuôi dưỡng và tưới mát bởi cuộc gặp gỡ hàng ngày của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể và Lời của Ngài, thì cuối cùng, một khoảng trống chết chóc sẽ được tạo ra trong chị ấy, cũng như trong việc phục vụ của người nghèo của chị ấy. Khi trống rỗng, chị ấy sẽ lấp đầy khoảng trống bằng những điều thứ yếu. Chị ấy không thể tồn tại, theo nghĩa đầy đủ của từ này, nếu không có sự sống bám rễ sâu trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

2.2 Trong cộng đoàn (được kêu gọi và tập hợp)

Các Đấng sáng lập không thể kiến tạo cuộc sống của Nữ Tử Bác Ái, mà không có cuộc sống cộng đoàn. Họ tin rằng, chính Chúa đã tập hợp các chị em lại để thành lập Tu hội. Và Thánh Vinh Sơn ngạc nhiên: “Thật là một điều kỳ diệu! Thiên Chúa đã chọn và tập hợp các cô gái từ nhiều nơi và các tỉnh thành khác nhau, để đoàn kết và kết hợp họ với nhau bằng mối dây bác ái để biểu lộ cho con người, ở rất nhiều nơi khác nhau, tình yêu mà Ngài cưu mang và sự quan tâm của Ngài dành cho họ để họ, có thể được giúp đỡ trong những nhu cầu cần thiết của họ và do đó, sự Quan phòng của Ngài được nhận ra ”(Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 1218).

Sự độc đáo của Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise de Marillac trong hình thức mới của đời sống cộng đoàn này đánh dấu Bản sắc của Tu hội, và căn tính của Nữ Tử Bác Ái. Đó là một đời sống cộng đoàn cho việc truyền giáo, một nơi phân định tông đồ, nơi mà lòng bác ái của Chúa Kitô trú ngụ trong tinh thần liên kết các chị em lại với nhau và không đâu khác hơn là Thần Khí Thiên Chúa.

Trong buổi đàm luận đầu tiên vào ngày 31 tháng 7 năm 1634, đã được lưu truyền lại cho chúng ta trong tập sách các buổi Đàm luận của thánh Vinh Sơn cho các Nữ Tử Bác Ái, thánh Vinh Sơn nhận xét rằng, Chúa Quan Phòng đã tập hợp các Nữ Tử Bác Ái với hình mẫu, mà họ tôn vinh bản tính nhân loại của Chúa Giêsu trên trần gian và phục vụ Thiên Chúa.

Lý do chính yếu cho việc đến với nhau này được nhắc lại trong Hiến pháp 2, 17:

“Được Thiên Chúa kêu gọi và tập hợp, các Nữ Tử Bác Ái sống đời sống huynh đệ chung với nhau ngày càng tốt hơn, để hoàn thành sứ mệnh phục vụ cụ thể của mình.” Vì vậy, đời sống cộng đoàn huynh đệ được các Đấng Sáng Lập xem như “… một trong những hỗ trợ cơ bản của ơn gọi Nữ Tử Bác Ái. Điểm chung của đời sống huynh đệ này là sống trong một cộng đoàn địa phương, nơi các chị em cộng tác trong đức tin và niềm vui, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, và không ngừng củng cố lẫn nhau vì lợi ích của sứ vụ.”

Trong mối quan hệ với các yếu tố khác cấu thành căn tính Nữ Tử Bác Ái, đời sống cộng đoàn huynh đệ không kém phần quan trọng, vì chính Thiên Chúa đã tập hợp 12 chị em đầu tiên để phục vụ tốt hơn. “Ồ! Thật là một ân huệ khi trở thành một thành viên của một cộng đoàn, vì mỗi thành viên đều được chia sẻ những điều tốt đẹp được thực hiện bởi tất cả mọi người. Bằng cách này, chị em sẽ có nhiều ân sủng dồi dào hơn”(Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 1).

Một nơi chốn thần học, đời sống cộng đoàn chứng kiến ​​cùng một sự sống của Thiên Chúa, sự hiệp thông của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, trong một tình yêu tương giao là quà tặng và sự sống. Hiến pháp 2.17 đã nói rất rõ về chủ đề này: “Cộng đoàn địa phương được mô phỏng theo Chúa Ba Ngôi…. Sứ mệnh phục vụ người nghèo được nhận từ Tu hội và chính nhân danh Tu hội mà Nữ Tử Bác Ái sống cuộc đời này. Đó là nơi, như một trong những người viết tiểu sử của Thánh Louise đã nói, một Cenacle (cộng đoàn chia sẻ đức tin), nơi các chị em đến với nhau trong lời cầu nguyện và kết hợp tâm hồn để lãnh nhận Thánh thần của Chúa và sứ mệnh mà Chúa dành cho họ, với những ngày tháng trôi qua Tu hội” (xem Hiến pháp, chương VII). Đây là đất thánh của chúng ta, nơi mà sự kết hợp với Đức Kitô phải tồn tại, nếu không, sẽ có nguy cơ “thân thể bị phân mảnh”.

Không phải lúc nào chúng ta cũng ý thức được sức mạnh ngôn sứ đến từ đời sống huynh đệ, trong khi mỗi Nữ Tử Bác Ái và toàn thể cộng đoàn có trách nhiệm trở thành và là những ngôn sứ hiệp thông với Thiên Chúa. Đó là “xem họ yêu thương nhau như thế nào” của Phúc Âm. Đời sống huynh đệ, nếu thực sự là huynh đệ, làm chứng cho một Thiên Chúa, là Đấng kết hợp và tạo nên sự hiệp nhất giữa các dân tộc.

Toàn thể cộng đoàn địa phương có sứ mệnh tuyên bố, bằng cách “hiện hữu” và “phục vụ cùng nhau”, rằng Chúa Giêsu hiện diện và vương quốc của Ngài, ở trong chúng ta. Thánh Louise đã viết cho các chị em ở Angers: “Hãy khích lệ nhau, và nhờ gương tốt chung của các chị em, thì nó diễn tả tốt hơn bất cứ lời nào có thể” (Bút tích Thiêng liêng, L. 402, p. 450). Do đó, trách nhiệm của chúng ta, là làm cho những điều kỳ diệu của Thiên Chúa có thể nhìn thấy được trong nhân loại mong manh này của chúng ta. Chúng ta chứng kiến ​​những điều kỳ diệu này, không phải bằng lời nói, mà bằng ngôn ngữ hùng hồn của một cuộc sống đã được biến đổi, có khả năng làm kinh ngạc thế giới (xem Vita Consecrata, 20).

2.3. Vì sự phục vụ của Đấng Kitô trong người nghèo (tiếp tục sứ mệnh của Đức Kitô)

Đây là mục đích của Tu hội. Chính vì điều này mà Nữ Tử Bác Ái đã được sinh ra trong Giáo Hội và trong Tu hội. Tất cả cuộc đời của chị ấy, (“hoàn toàn được trao hiến cho Thiên Chúa”, sự xác nhận món quà này qua bốn lời khấn, và đời sống cộng đoàn) được sống theo mục đích cuối cùng, trong đó sự hợp nhất của cuộc đời chị ấy được tìm thấy: mục tiêu chính yếu mà Thiên Chúa đã kêu gọi và tập hợp các Nữ Tử Bác Ái là để tôn vinh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta là nguồn gốc và khuôn mẫu của mọi đức ái, phục vụ Ngài về mặt thể xác và tinh thần trong thân phận người nghèo”(Luật chung I, 1).

Tôn vinh Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô là được hướng đến“người khác” trong sự cởi mở và lắng nghe, đó là để sống kết hợp với Ngài trong một thái độ tôn thờ, mà trở thành sự chào đón sự sống và ân phúc của bản thân trong việc phục vụ, đồng thời cả về thể xác và tinh thần. Vì mục đích này, Nữ Tử Bác Ái, khi theo Chúa Kitô, là tôi tớ của người nghèo.

Sự phục vụ này không gì khác hơn là sự tiếp tục sứ mệnh của Đức Kitô.“Để trở thành Nữ Tử Bác Ái thực sự, chị em phải làm những gì Con Thiên Chúa đã làm khi còn ở trên đất. Và chủ yếu Ngài đã làm gì? … Ngài làm việc không ngừng cho người lân cận, thăm viếng và chữa lành những người bệnh và hướng dẫn những người ngu dốt về sự cứu rỗi của họ. Ôi hạnh phúc làm sao các Nữ Tử Bác Ái, các con thật hạnh phúc biết bao khi được kêu gọi đến một trạng thái sống đẹp lòng Thiên Chúa!” (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 13).

Với đôi mắt tập trung và chăm chú vào Đức Kitô, như được suy ngẫm trong Sách Thánh (đặc biệt là các Tin Mừng Lc 4: 18-21 và Mt 25: 31-46), thánh Vinh Sơn nhận thấy một sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa chính Chúa Giêsu và những người nghèo trong xã hội trong thời đại của Ngài. Mối quan hệ của ngài với người nghèo thực sự cho thấy, Chúa Giêsu hiện diện trong con người của họ. Ngài muốn trở thành con người để khôi phục nhân loại về vẻ đẹp đầu tiên của nó (theo hình ảnh của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã sáng tạo ra họ, có nam, có nữ…). Với đức tin và sự xác tín, ngài nói,“phục vụ Người nghèo, là phục vụ Chúa Giêsu Kitô. Hỡi các con gái của tôi, điều này là rất đúng! Các con đang phục vụ Chúa Giêsu Kitô. Và điều đó đúng như chúng ta đang ngồi đây. Một chị sẽ mười lần đi thăm người bệnh và mười lần chị sẽ tìm gặp Chúa.”

2.3.1. Con mắt đức tin

Niềm tin này cố gắng trau dồi và phát triển con mắt đức tin và coi người nghèo như những vị chúa và Chủ nhân, mà người tôi tớ phải thể hiện sự tôn trọng, thân ái và tận tụy.… “theo gương các Đấng sáng lập, họ coi người nghèo như những vị chúa của họ, người mà họ phải yêu thương dịu dàng và hết sức tôn trọng, và như những người chủ của họ ‘người mà rao giảng cho họ bởi sự hiện diện của họ’ ”(HP. 2,1). “Nhờ đức tin, họ thấy Đức Kitô ở trong người nghèo và người nghèo trong Đức Kitô” (HP. 1,7).

Trang 2, của tài liệu “Một Ngọn Lửa Mới”, nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Kitô và người nghèo là hai điểm quy chiếu không thể tách rời, sẽ định hướng cuộc sống và sứ mệnh của Tu hội ngày nay và luôn luôn, và do đó là dành cho Nữ Tử Bác Ái. Điều này đặt Nữ Tử Bác Ái trong một động lực liên lỉ trong sự hiệp nhất, liên tục đến và đi giữa Chúa Kitô được tôn thờ trong Mình Thánh Chúa và Chúa Kitô đã phục vụ trong những phần tử đau khổ, bị biến dạng, bị gạt ra bên lề và bị khinh miệt. Đây là những người nghèo mà Nữ Tử Bác Ái phải liên tục bày tỏ sự dịu dàng của Thiên Chúa. Việc phục vụ người nghèo đối với Nữ Tử Bác Ái trở thành nơi chị ấy chứng tỏ tình yêu của mình đối với Chúa Kitô theo Phúc âm: “Khi các người đã làm điều này cho một người nhỏ bé, thì con đã làm điều đó cho ta” (Mt 25:40).

Tính ưu việt của Tình yêu tuyệt đối là sống trong sự phục vụ. Chính phương tiện của tình trạng bác ái phải làm sinh động toàn bộ cuộc đời của một người tôi tớ. Nó phải được tiêu hao cho Thiên Chúa, để phục vụ người nghèo. Để yêu bằng một tình yêu ưu tiên đã được đón nhận một cách tự do từ Thiên Chúa, người Nữ Tử Bác Ái cũng phải hiến thân theo cách tương tự. Chị ấy tham gia cùng những người nghèo trong hoàn cảnh cụ thể của họ, với nỗ lực trở thành “dấu chỉ” của tình yêu thương của Thiên Chúa, được thể hiện bằng sự rộng lượng, dịu dàng, dịu dàng, từ bi và quan tâm.

Việc phục vụ người nghèo là điểm hội tụ trung tâm của đời sống Nữ Tử Bác Ái: lời cầu nguyện, đời sống cộng đoàn, sự nghèo khó, khiết tịnh, vâng phục của chị ấy. Xung quanh trục thiết yếu này, chị ấy tìm thấy sự thống nhất của cuộc sống. Nếu không có người nghèo, sẽ không có Nữ Tử Bác Ái, theo nghĩa của đặc sủng Vinh Sơn.

2.3.2. Một Tinh thần Phúc âm về sự Khiêm tốn, Đơn sơ và Bác ái

Cách diễn tả đặc ân về “quà tặng hoàn toàn dành cho Thiên Chúa” của Nữ Tử Bác Ái là phục vụ người nghèo, sống trong tinh thần Tin Mừng của sự Khiêm nhường, Đơn sơ và Bác ái. Thánh Vinh Sơn nói với những chị đầu tiên: “chị em có một sứ vụ giúp đỡ người lân cận của mình. Tinh thần này bao gồm ba điều: “… yêu mến Chúa của chúng ta và phục vụ Ngài trong tinh thần khiêm nhường và đơn sơ. Chừng nào lòng bác ái, sự khiêm tốn và sự đơn sơ còn tồn tại trong chị em, người ta có thể nói: ‘Tu Hội Nữ Tử Bác Ái vẫn còn tồn tại” (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 528).

Các Đấng sáng lập đã nói rất chính xác về hành vi mà người Nữ Tử Bác Ái nên thể hiện liên quan đến tinh thần của họ. Chỉ cần nhìn vào các buổi đàm luận ngày 2, 9 và 24 tháng 2 năm 1653 là đủ; hoặc ngày 14 tháng 7 năm 1658 và trong lá thư của Thánh Louise (A. 78). Tinh thần cụ thể này phải lấp đầy và hấp thụ toàn bộ con người, toàn bộ cuộc đời của Nữ Tử Bác Ái. Đó là dấu hiệu cụ thể đặc trưng cho một người phục vụ người nghèo và do đó, chuyển tải sự khác biệt giữa chị ấy và tất cả những người khác, những tu hội hoặc tổ chức phục vụ người nghèo khác.

2.3.3. Tinh thần người phục vụ

Tinh thần của Tu hội, được công bố rõ ràng trong các buổi đàm luận ngày 25 tháng 1 năm 1643 (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 74, ff.) Và ngày 2, 9, 24 tháng 2 năm 1653 (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 516, ff.), Hiến pháp dựa vào đó mà Nữ Tử Bác Ái xây dựng cuộc sống của mình và làm khuôn mẫu cho thái độ của mình. Chị ấy học cách trở nên đầy tớ theo phong cách của Chúa Giêsu, với đôi mắt chăm chú vào Chúa Giêsu Kitô. “Vì chính Con Người không đến để được phục vụ, mà là để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45), và một lần nữa “… Thầy ở giữa anh em với tư cách là người phục vụ”(Lc 22:27).

Toàn bộ cuộc đời của các Nữ Tử Bác ái là phục vụ và chính vì thế mà chị ấy phải duy trì. Mẹ Rogé nói: “Ở giữa những người nghèo như một người phục vụ, người không muốn được phục vụ, nhưng là người cho đi cuộc sống của mình, đó là ơn gọi của chúng ta. “Dù loại công việc cụ thể hay mức độ năng lực chuyên môn của họ, họ vẫn duy trì thái độ của người đầy tớ đối với người nghèo, nghĩa là thực hành các đức tính của tình trạng họ: khiêm nhường, đơn sơ và bác ái” (Luật chung 2, 9).

Được Thiên Chúa kêu gọi trở thành tôi tớ của người nghèo, Nữ Tử Bác Ái phải có được một tinh thần đầy tớ, tức là tinh thần của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã “nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2: 7-8). Có được tinh thần “đầy tớ” đòi hỏi phải có tâm hồn nghèo khó như một người không có gì, như Chúa Giêsu Kitô, như Maria, tôi tớ, xả thân theo ý muốn của Chúa Cha dành cho mình.

Cha McCullen, CM, cựu Bề trên Tổng Quyền đã nói: “Chỉ sau khi học được sự khiêm nhường và vâng lời, theo cách thức của Đức Kitô, chúng ta mới có thể nhân danh Ngài để trở thành đầy tớ của người nghèo. Chúng ta là tôi tớ vì Chúa Giêsu đã chọn làm tôi tớ. Ngài dành cho chúng ta Con đường, Sự thật và Sự sống.”

2.3.4. Tính thực tiễn của cuộc sống khi bước theo Chúa Giêsu

“Chúa Kitô là quy luật của Các Nữ Tử Bác Ái.” Để sống “hoàn toàn được trao cho Thiên Chúa,” theo sát Chúa Kitô và tiếp tục sứ mệnh của Ngài, “các Nữ Tử Bác Ái chọn cách sống hoàn toàn và căn bản những lời khuyên Phúc Âm về khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời; điều này làm cho họ sẵn sàng phục vụ Đức Kitô nơi người nghèo, tức là mục đích cuối cùng của Tu hội ”(Luật chung 1,5). Tất cả trong Tu hội, và do đó trong cuộc sống của một Nữ Tử Bác Ái, đều phụ thuộc vào mục đích này. Có một sự kết hợp mật thiết và có đi có lại giữa “quà tặng hoàn toàn” và “sự phục vụ”, vì “món quà” này được thực hiện chủ yếu trong và qua sự phục vụ như vậy, trong và qua chính hoạt động tông đồ, theo nghĩa sâu xa nhất của nó.

Việc sống theo các lời khuyên Phúc âm được tìm thấy trong lòng trung thành … “theo gương của Thánh Louise, như là sự thể hiện của một tình yêu tìm cách đi đến những đòi hỏi tối đa của sự toàn vẹn trên con đường thích hợp với ơn gọi của chúng ta, và kết quả là về một sự tiến triển thiêng liêng, mang theo cam kết của Nữ Tử Bác Ái đến điểm kết nối thiêng liêng nhất giữa Chúa Giêsu và chính mình ”(Hiến pháp, chương VIII). Được tình yêu Thiên Chúa nắm bắt, Nữ Tử Bác Ái xác nhận sự đáp trả tình yêu của mình trong một món quà hoàn toàn và độc nhất, trong việc tái tạo trong con người mình, cuộc sống của Chúa Giêsu, Đấng đã đến với chúng ta để trở thành một tôi tớ trong trắng, nghèo khó, vâng lời. Được sống như một sự phê chuẩn của món quà hoàn toàn dành cho Thiên Chúa, các lời khấn là nguồn sức mạnh, một sự kết hợp bắt nguồn từ mầu nhiệm Giáo hội (Luật chung 2, 5).

Đức khiết tịnh là con đường mà Nữ tử Bác ái hiến mình, không ích kỷ, cho Chúa Kitô vì người nghèo, và nhân danh Chúa Kitô cho người nghèo. Đó là một “sự đáp trả của tình yêu đối với tiếng gọi của tình yêu, nó bao hàm việc tham dự vào Mầu nhiệm Vượt qua, mầu nhiệm của sự sống và cái chết” (Luật chung 2, 6).

Sự nghèo khó của Nữ Tử Bác Ái cho phép chị ấy sống hòa thuận với người nghèo và nhờ đó họ luôn sẵn sàng phục vụ họ. Đó là đặc điểm cơ bản của một người theo Chúa Giêsu: “Anh còn thiếu một điều. Hãy đi bán tất cả những gì mình sở hữu và chia tiền cho người nghèo,… rồi hãy đến theo Thầy”(Mc 10,21; Lc 18,22). Sự nghèo khó này mời gọi người Nữ Tử Bác Ái sống giản dị, hết lòng tin tưởng vào Chúa Quan Phòng và thực hiện một lối sống giản dị.

Sự vâng lời của Nữ Tử Bác Ái là sự đáp lại lời kêu gọi của người nghèo, trong sứ vụ qua việc sai đi của Tu hội. Một cách cởi mở và tự do tuân theo ý muốn của Thiên Chúa, sự vâng phục của chị ấy là một cách để cho phép mình được đào tạo, trong mầu nhiệm của Chúa Kitô bằng kinh nghiệm đặt mình dưới thập giá của Chúa Kitô. “Vì lợi ích của chúng ta, Chúa Giêsu Kitô đã trở nên vâng lời cho đến chết, chết trên Thập tự giá.” Sự vâng phục này liên quan đến Nữ Tử Bác Ái, trong việc tham gia có trách nhiệm vào sứ mệnh của cộng đoàn địa phương, nhân danh Tu hội.

B. Căn tính của người Nữ Tử Bác Ái trong Giáo hội

1. Hiệp hội Đời sống Tông đồ

Trong Giáo hội, Tu hội có một căn tính được xác định rõ ràng và được công nhận là một “… hiệp hội của đời sống tông đồ trong cộng đoàn. Bằng một mối ràng buộc được xác định bởi các Hiến pháp, các thành viên tự nguyện để sống các lời khuyên Phúc âm” (Luật chung 1,13).

Giáo luật 731 quy định: “Bên cạnh các Tu hội thánh hiến là các Tu đoàn tông đồ, mà các thành viên theo đuổi mục đích tông đồ riêng của tu đoàn, dù không có lời khấn dòng, và sống chung như anh chị em theo một lối sống riêng, để vươn tới sự hoàn hảo của đức ái qua việc tuân giữ hiến pháp.Trong số các tu đoàn ấy, có những tu đoàn mà các thành viên đảm nhận các lời khuyên Phúc Âm bằng một mối ràng buộc nào đó do hiến pháp quy định.”

Để cố gắng hướng tới sự hoàn thiện của lòng bác ái bằng cách tuân thủ Hiến pháp, trong việc dẫn đến một đời sống Phúc âm hóa theo gương của Thánh Vinh Sơn và Thánh Louise, Nữ Tử Bác Ái thừa nhận:

1.1 Không có lời khấn dòng

“Nếu (giám mục) hỏi chị em: ‘chị em có lời khấn dòng không?’ Hãy nói với ngài rằng: Ồ, không, thưa đức cha, chúng con dâng mình cho Chúa để sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời,… ” (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 474). Bằng cách này, việc thực hành các lời khuyên Phúc âm được phê chuẩn trong việc chuyển giao các lời khấn “không có lời khấn dòng, hàng năm và luôn luôn được lập lại ”(Luật chung 2,5) nghĩa là các chị em không là tu sĩ, nhưng là Nữ Tử Bác Ái, thậm chí trước khi họ khấn lần đầu.

Cụm từ “hàng năm và luôn được lặp lại” không đồng nghĩa với các lời khấn tạm. Chúng biểu thị một sự đào sâu năng động, của món quà hoàn toàn mà chúng ta dành cho Thiên Chúa trong Tu hội luôn ở thì hiện tại. “Một người không làm lời khấn để trở thành Nữ Tử Bác ái, nhưng vì người ấy là một Nữ Tử Bác Ái và để trở thành một người Nữ Tử Bác Ái hơn” (Cha Lloret trong Hướng dẫn đào tạo sơ khởi). Do đó, chúng phải được sống một cách triệt để nhất có thể.

1.2 Tính tại thế (secularity)

Tính tại thế, một đặc điểm của đặc sủng của Tu hội, được hiểu liên quan đến tư duy của thời đại, để tạo đối trọng với đời sống tu trì vào thời điểm đó, nhằm cho phép tính di động và sẵn có hơn, và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của người nghèo. “Nữ Tử Bác Ái không là tu sĩ, nhưng là những Nữ Tử đến và đi như những người trong người tại thế” (Coste, Thư Từ VIII, Lá thư 3077).

Năm 1650, trong buổi đàm luận của thánh Vinh Sơn để chuẩn bị cho các chị em được gửi đến Hennebont, Montmirail và Nantes, cha nói với họ, theo những thuật ngữ sau: “Nếu (giám mục) hỏi chị em là ai? Có phải nữ tu không?, chị em sẽ nói với ngài rằng, chúng con không phải là nữ tu, bởi ân sủng của Thiên Chúa, không phải là không nghĩ về sự cao trọng của bậc tu sĩ, nhưng nếu chị em là nữ tu, chị em sẽ phải ở trong tu viện và do đó sẽ phải nói lời từ biệt với việc phục vụ người nghèo.”

Vào ngày 12 tháng 11 năm 1653, cha kiên quyết khẳng định với Giám mục Nantes: “các Nữ Tử Bác Ái sẽ không bao giờ là tu sĩ, và khốn cho bất cứ ai nói về việc biến họ thành tu sĩ” (Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 588).

Tuy nhiên, tính tại thế này không thể được hiểu theo bất kỳ cách nào khiến Nữ Tử Bác Ái có tính cách giáo dân. Điều đó không làm chị ấy tránh khỏi những nghĩa vụ mà chị ấy đã tự do thực hiện và chị ấy phải đảm nhận với tất cả sự trung thực và tự do về tinh thần, đó là: “dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa, trong một cộng đoàn của đời sống huynh đệ, để phục vụ Đức Kitô trong nghèo, với tinh thần khiêm nhường, đơn sơ và khó nghèo của Phúc âm, thực hiện các lời khuyên Phúc âm khiến chị ấy sẵn sàng phục vụ công việc này.” Ngược lại, chị được mời gọi sống một đời sống nhân đức hơn là nữ tu: “Họ nên nhớ rằng, họ không ở trong một dòng tu, vì tình trạng đó không phù hợp với những bổn phận trong ơn gọi của họ. Tuy nhiên, bởi vì họ tiếp xúc với những dịp tội nhiều hơn là nữ tu bị ràng buộc sống trong bốn bức tường tu viện … họ phải có nhiều hoặc nhiều nhân đức hơn, những người thuộc về một dòng tu” (Luật chung 1, 9).

Sự trung thành với Luật sống của chúng ta là Hiến pháp – được coi là một tiêu đề chính xác – “một bản tóm tắt như tính vốn có của Phúc âm, phù hợp với các thực hành thích hợp nhất, để hợp nhất chúng ta với Chúa Giêsu Kitô và tương ứng với các dự liệu của Ngài” (Coste, Đàm Luận với các cha Tu Hội Truyền Giáo, 651) – sẽ khiến chúng ta đạt được những gì Chúa yêu cầu ở chúng ta và dẫn chúng ta đến sự hoàn thiện (xem Coste, Đàm luận với các Nữ Tử Bác Ái, 275-294).

2. Tính cách Quốc tế và Truyền giáo

Tính cách quốc tế của Tu hội được thể hiện trong cuộc sống, tổ chức và đại diện của nó.

Đối mặt với đặc điểm này, Tu hội, trong Tổng đại hội vừa qua, đã được kêu gọi:

  • Không ngừng nỗ lực “tiến về phía trước với lòng trung thành táo bạo, dọc theo con đường hội nhập văn hóa” (A New Fire, p. 3)
  • Khám phá cá nhân và trong cộng đoàn những “hạt giống của Lời ” và các giá trị hiện diện trong mọi nền văn hóa và giữa những người nghèo (A New Fire, p. 3)
  • Từ bỏ “những phương tiện không còn có thể diễn đạt, trong văn hóa ngày nay, sức sống của ơn gọi và sứ mệnh của chúng ta trong Giáo hội” (A New Fire, p. 6).

Những lời kêu gọi này được kết hợp với mối quan tâm truyền giáo của Tu hội nhằm “quan tâm đặc biệt đến‘hạt giống của Lời’chứa đựng trong các nền văn hóa khác nhau” (Luật chung 2, 10). Đặc điểm này của Tu hội thể hiện tinh thần truyền giáo phải thúc đẩy tất cả chị em sẵn sàng phục vụ ở bất cứ nơi đâu mà họ được cử đến.

Theo cách này, Tu hội, vốn “bản chất là truyền giáo, cố gắng duy trì sự linh hoạt và cơ động cần thiết để đáp ứng những lời kêu gọi của Giáo hội trước mọi hình thức nghèo đói” (Luật chung 2,10).

C. Các đặc điểm đặc trưng khác

1. Một Tu hội có Bề trên Tổng quyền cũng là Bề trên Tổng quyền của Tu Hội Truyền Giáo

Đặc điểm này xuất phát trực tiếp từ thánh Louise trong mối quan tâm bảo vệ sự thống nhất của Tu hội. “Thiên Chúa đã ban cho tâm hồn tôi sự bình an và đơn sơ tuyệt vời trong thời gian tôi suy gẫm về sự bất toàn của tôi, về nhu cầu phải có Tu hội của các Nữ Tử Bác Ái, cần phải được duy trì liên tục dưới sự hướng dẫn của Chúa Quan Phòng, trong các vấn đề thiêng liêng, cũng như vật chất” (Bút Tích Thiêng Liêng, L.199, trang 234)

Các Nữ Tử Bác Ái thừa nhận thẩm quyền của Bề Trên Tổng Quyền của Tu Hội Truyền Giáo. Họ thề sẽ vâng lời ngài … (Luật chung 3,27). Một vị có danh “ad nutum” (tùy thuộc vào quyết định của riêng ngài), là một Tổng đại diện, là người đại diện thường trực của cha Tổng quyền cho Tu hội. Sau khi hội ý, Bề trên Tổng quyền bổ nhiệm các đại diện Tỉnh vào ban cố vấn Tỉnh.

2. Một Tu hội với Đức Maria như là “người Mẹ duy nhất”

Ngay từ đầu, Đức Maria đã chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng Tu hội: “Đức Maria, người Kitô hữu đầu tiên và là trinh nữ thánh hiến xuất sắc, đã hiện diện trong đời sống của Tu hội từ nguyên thủy” (Luật chung 1,12).

Trong tình yêu của họ đối với Đức Trinh Nữ Maria, các Đấng Sáng Lập mời gọi các Nữ Tử Bác Ái noi gương và chiêm ngắm nơi Đức Maria:

– Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, hoàn toàn mở rộng tâm hồn đón nhận Thánh Linh …

– Người Tôi Tớ khiêm tốn và trung thành theo những thiết kế của Chúa Cha, và là mẫu mực của những người nghèo trong tinh thần …

– Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của lòng thương xót và niềm hy vọng của những kẻ hèn mọn,… ”(Luật chung 1.12).

Vì vậy, các cuộc hiện ra và sứ điệp năm 1830, đối với Tu hội và mọi Nữ Tử Bác ái, đồng thời là một lời đáp trả và một sự chào đón: đáp lại tình yêu mà họ dành cho Mẹ, về phần họ, về tình yêu của Mẹ Maria đối với họ.

II. Sống căn tính Nữ Tử Bác Ái ngay hôm nay như thế nào?

Sau khi cố gắng, trong phần đầu tiên của buổi nói chuyện này, để nhắm đến những yếu tố đặc trưng nhất của căn tính của chúng ta, chúng ta đến với phần thứ hai với câu hỏi “sống căn tính đó như thế nào trong thế giới ngày nay”.

Căn tính của Tu hội và của Nữ Tử Bác Ái là duy nhất. Duy nhất là tình yêu làm sinh động và định hướng cuộc sống của chị ấy, nhưng đa số là các hình thức nghèo khó, đa số là các xã hội, văn hóa, hoàn cảnh và hoàn cảnh mà trong đó việc phục vụ của Đức Kitô trong người nghèo phải bén rễ và được thể hiện. Điều này có nghĩa là có vô số phản ứng theo bối cảnh cảnh để đưa ra, để thực hiện và đưa vào hành động.

Không đầy đủ, đây là hai nhóm gồm một số điểm xác tín và câu hỏi, trong việc tìm kiếm “cách” sống trung thành căn tính của người Nữ Tử Bác ái mà “không bao giờ phải là sự lặp lại thuần túy và đơn giản của quá khứ, mà là một sự sáng tạo đó là lâu dài và mạch lạc.”

1. Nữ Tử Bác Ái trong thế giới

Trước sự phát triển nhanh chóng của hành tinh chúng ta, hiện tượng toàn cầu hóa và một xã hội mà chỉ có quyền lực, uy tín, hiệu quả và tiền bạc mới có giá trị, Tu hội phải tiếp tục tìm cách mang đến cho mỗi Nữ Tử Bác Ái một nhân cách vững vàng, Kitô giáo, giáo lý, thiêng liêng, và đào tạo Vinh Sơn, trên đó chị ấy sẽ xây dựng chị ấy như là tôi tớ của người nghèo. Cần phải có một sự đào tạo và đồng hành liên tục cho phép đồng hóa Hiến pháp và đặc sủng đến tận gốc rễ sâu xa nhất của điều ấy.

Đối mặt với chủ nghĩa chính thống (hay trào lưu hiện đại), bạo lực, chia rẽ giữa các dân tộc, chiến tranh, sự dễ dãi, bị gạt ra ngoài lề, sự loại trừ, sự bất an về đạo đức và tâm lý, sự giải trừ Kitô giáo và ma túy, Nữ Tử Bác Ái là một sự tương phản mang lại sức mạnh của hòa bình và hòa giải, sự tôn trọng, đức tin, hiệp thông, chia sẻ, hy vọng, “tình yêu sáng tạo đến vô tận.” Tình yêu này bày tỏ tình yêu kia như một thụ tạo được sinh ra từ tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương và có khả năng yêu thương đáp lại.

Trong một xã hội phân tán, ồn ào, cãi vã, Nữ Tử Bác Ái tạo ra những khoảng thời gian và không gian tĩnh lặng, chiêm nghiệm để nghe Chúa, tiếng khóc và sự im lặng của người nghèo.

Là một ái nữ của Giáo Hội, với tư cách là Kitô hữu và Nữ Tử Bác Ái, nhưng không bị hòa trộn với những người khác và kính trọng đối với căn tính của chúng ta, chúng ta tiếp tục can đảm như Thánh Vinh sơn trong sự cộng tác với giáo dân và các chi nhánh khác của Gia đình Vinh Sơn.

2. Nữ Tử Bác Ái không theo tinh thần thế gian

Chỉ có sự bám rễ vào Thiên Chúa bằng một đời sống được nuôi dưỡng qua Bí tích Thánh Thể, Tin Mừng, Hiến pháp và lời cầu nguyện của chúng ta, mới giúp Nữ Tử Bác Ái có được con tim, tình cảm và sự tôn trọng của chính Chúa Giêsu, và tìm thấy sự năng động để thăng tiến và gia tăng trong việc trở thành một “con người nội tâm”có khả năng:

– Xác tín này: Chúa Kitô thực sự hiện diện trong anh chị em chúng ta, những người nghèo khổ, và họ cũng hiện diện trong Người, để yêu thương và phục vụ họ với lòng kính trọng, khiêm nhường, hiền hậu, nhân hậu, vui vẻ … như người đầy tớ.

– Xây dựng các Cộng đoàn huynh đệ đích thực, chào đón và đối thoại, nơi Chúa Kitô là tiêu chí định tính duy nhất để trở thành nhân chứng và ngôn sứ cho những người đến tu hội và cho người nghèo (Thánh thi Đức Ái của Thánh Phao-lô – 1 Cor.13).

– Thực hiện một cách cụ thể các yêu cầu của Hiến pháp và Quy chế của chúng ta. Định kỳ sửa đổi kinh nghiệm sống và hành động của chúng ta để điều chỉnh lại bản thân khi đối mặt với những cam kết đã thực hiện, có thể là một trợ thủ đắc lực.

– Sống lời khấn và lời khuyên tin mừng một cách xác thực và minh bạch hơn, không mơ hồ: mối quan hệ giữa các cá nhân lành mạnh, không quá quen thuộc (khiết tịnh), – rõ ràng trong việc trình bày về của cải được đặt cho chúng ta và sống một lối sống giản dị (nghèo khó) – đổi mới một tinh thần khổ hạnh, hành xác, hy sinh và sẵn sàng đối với Chúa Thánh Thần, Đấng cũng hành động thông qua tư tưởng của con người (vâng phục) – với con mắt đức tin, tình yêu và sự tôn trọng đối với người nghèo như Chúa và Chủ nhân và bí tích của Chúa Giêsu (lời nguyện phục vụ người nghèo).

-Thánh Vinh Sơn bày tỏ ước muốn sâu sắc được thấy các Nữ tu sống theo thực hành của các lời khuyên Tin Mừng và lời khấn của họ trong lời cầu nguyện đẹp đẽ này: “Lạy Chúa, chúng con hoàn toàn hiến thân cho Chúa. Xin ban cho chúng tôi ân sủng để sống và chết trong sự tuân thủ hoàn hảo của sự nghèo khó đích thực để sống và chết một cách thanh thản,… sống và chết trong sự tuân thủ hoàn hảo của sự vâng lời. Tương tự như vậy, chúng con dâng chính mình cho Chúa, hỡi Thiên Chúa của con, để tôn vinh và phục vụ, tất cả cuộc sống của chúng con, các người chủ của chúng con, là những người nghèo”(Coste, Đàm Luận với các Nữ Tử Bác Ái, 22).

Cho phép Chúa Thánh Thần kiến tạo chúng ta nên giống với Chúa Kitô … (xem C. 2,3) để hàng ngày trở thành một cộng đoàn ngôn sứ có khả năng khám phá những thách thức của hội nhập văn hóa và Tân Phúc âm hóa với sự táo bạo và sáng suốt.

Với tất cả và cho tất cả mọi người là “Nữ Tử Bác Ái đích thực: một Kitô hữu tốt” trong việc biến những châm ngôn của Phúc âm của Chúa Giêsu Kitô là của chúng ta.

Lưu ý rằng một cuộc sống ấm áp được dẫn dắt bởi cảm giác thân thuộc và sự hiệp thông với Tu hội giảm sút; bằng cách tự cho mình ra rìa; du hý với tư cách thành viên bên ngoài cộng đoàn; sự hời hợt trong đời sống tâm linh và cầu nguyện, và một cuộc khủng hoảng căn tính thiêng liêng.

Kết luận

Trong một thế giới bị nhiều cơn gió quật ngã, chúng ta cần phải kiên quyết bảo vệ căn tính của mình khi tuân theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.” (2 Tm 1,14 ).

Vì chúng ta được sinh ra trong Tình yêu của Thiên Chúa qua phép rửa tội và chúng ta là Nữ Tử Bác Ái, tức là “ái nữ của Thiên Chúa”, chúng ta phải trở nên “giống” như Đức Kitô hơn, Con Thiên Chúa, và qua gương mẫu của Ngài, tiếp tục công trình cứu độ của Ngài: phục vụ người nghèo.

Tất cả các Nữ Tử Bác Ái, và mỗi người nói riêng, phải tin tưởng vững chắc vào chứng tá của tình huynh đệ, vì ngay cả khi cá nhân chúng ta dốc hết sức để phục vụ người nghèo, chúng ta sẽ không bao giờ làm chứng cho phúc âm nếu chúng ta sống cạnh nhau mà không có sự hiệp nhất huynh đệ. Điểm mạnh của chúng ta sẽ là tính triệt để Phúc âm và điểm yếu của chúng ta là thiếu nhân chứng, một xu hướng hướng tới triển vọng của tầng lớp trung lưu.

Phúc âm phải luôn là Quy luật sống và là ánh sáng của chúng ta. Chính phúc âm sẽ giúp chúng ta khám phá lại ngọn lửa, sự đam mê thiên chúa, của những người nghèo, sống và yêu thương theo cách thức của Đức Kitô. Cái nhìn đức tin đối với người nghèo cho phép người ta nhận ra khuôn mặt biến dạng của Chúa Kitô. Sống chuyển động kép của tình yêu này trong sự phục vụ khiêm nhường hàng ngày, sống trong một cộng đoàn của đời sống huynh đệ, là trọng tâm của ơn gọi của chúng ta. Đó là chìa khóa để hồi sinh đặc sủng của chúng ta, và do đó, cuộc sống của Nữ Tử Bác Ái và toàn thể Tu hội  (xem Đức Hồng Y Eduardo Martínez Somalo cho các chị Giám tỉnh, Rôma, tháng 5 năm 2000)

Gắn bó chặt chẽ với Chúa Kitô, chúng ta biết làm thế nào để trở thành chính mình và những gì chúng ta phải trở thành: Những Nữ Tử Bác Ái Tôi Tớ Người Nghèo với tất cả những hàm ý của nó. Chúng ta phải cho phép những lời của Đấng Cứu Rỗi vang lên trong chúng ta: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.”(Ga 15, 4-6). Cầu nguyện sẽ là chìa khóa để tiếp tục trung thành: “Hãy cho tôi một người cầu nguyện, người ấy sẽ có thể làm được mọi việc” thánh Vinh Sơn nói.

Cầu xin Đức Trinh Nữ, Người Mẹ Duy Nhất của Tu hội, ban cho mọi Nữ Tử Bác ái và toàn thể Tu hội sự bảo vệ trong việc bảo vệ căn tính của chúng ta trước “gió bão và nước lớn”, để căn tính của chúng ta tỏa sáng với vẻ đẹp rạng ngời khiến thế giới kinh ngạc. Và ước gì sự đáng tin cậy mà chúng ta đang sống căn tính của mình, thúc giục nhiều người khác tham gia vào chuỗi tình yêu bắt đầu bởi Chúa Kitô và tiếp theo là Thánh Vinh sơn và Thánh Louise và các chị em tiên khởi của chúng ta.

Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM

chuyển ngữ từ Vincentiana: Vol. 45 : No. 4 , Article 6.