Dẫn nhập
Đức Giáo hoàng Phanxicô nói với dân chúng tại Malta vào năm 2022 khi ngài tông du đến đây: “anh chị em hãy trở thành một thượng hội đồng, hay nói cách khác là cùng nhau hành trình” và cũng tâm tình ấy ngài nói với các giám mục Ý 2017 về món quà “CONVENIRE IN UNUM” – nghĩa là ở một nơi, ở cùng nhau. Vì thế khoảng khắc này trở thành món quà và ân sủng để chúng ta cùng cầu nguyện, lắng nghe, chia sẻ và sống cùng với nhau trong tình anh em Vinh Sơn. Để từ tâm tình đó chúng ta nhận ra khuôn mặt của Thánh Vinh Sơn, Tổ phụ chúng ta trong bối cảnh của một Giáo hội hiệp hành. Và chủ đề trong bài viết này, xin được tạm gọi là: TÍNH CÁCH GIÁO HỘI HỌC QUA CÁC BIẾN CỐ TRONG CUỘC ĐỜI CỦA THÁNH VINH SƠN. Để từ đó chúng ta cùng sống tính cách Vinh Sơn trong bối cảnh mục vụ giáo xứ, giáo điềm truyền giáo và các cộng đoàn của chúng ta trong sự hiệp thông với giáo hội địa phương.
Trong tang lễ vào lúc thánh Vinh Sơn qua đời, bạn của ngài, Đức Giám mục Henri Maupas de Tours đã khẳng định rằng Thánh Vinh Sơn gần như đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của Giáo hội. Từ góc độ kinh nghiệm cá nhân và giáo hội của mình, cũng như từ góc độ đức tin của mình, Thánh Vinh Sơn đã nỗ lực hết sức để thay đổi hình ảnh của một Giáo hội đang cần được cải cách trong bối cảnh thế kỷ 17. Nếu đó là bối cảnh liên quan đến linh đạo Vinh Sơn, thì tình hình càng trở nên nghiêm túc hơn khi đề cập đến khía cạnh chính yếu này: nền tảng giáo hội học của Thánh Vinh Sơn Phaolô. Chúng ta không thể nói rằng Thánh Vinh Sơn không có giáo hội học, nhưng chúng ta có thể nói rằng giáo hội học của ngài hiếm khi được nói đến hoặc đề cập đến và do đó, rất ít người hiểu sâu sắc hơn về giáo hội học của Thánh Vinh Sơn.
Chúng ta có ấn tượng rằng người ta hoặc không muốn đề cập đến chủ đề này, hoặc họ cho rằng Thánh Vinh Sơn không có đóng góp đáng kể nào cho giáo hội học. Cũng có giả định rằng, chủ đề giáo hội học này ít được thảo luận, bởi vì tất cả những gì Thánh Vinh Sơn nói và làm, ngài đã nói và làm với tư cách là một người của Giáo hội, như một người vâng phục Giáo hội và là một người hết lòng yêu mến Giáo hội. Thế nhưng, một chuyên gia về các vấn đề Vinh Sơn, André Dodin, đã phát biểu: khía cạnh giáo hội học của di sản Vinh Sơn của chúng ta phần lớn đã bị bỏ qua[1].
Tầm nhìn giáo hội học của Thánh Vinh Sơn Phaolô không thể tách rời khỏi kinh nghiệm thiêng liêng và mục vụ của ngài. Sự hiểu biết của ngài về cộng đoàn giáo hội đã được thanh tẩy, hoàn thiện và đào sâu phù hợp với sự tiến triển và kinh nghiệm của chính ngài. Vì vậy, chúng ta bắt đầu với một số thông tin cơ bản sẽ giúp chúng ta hiểu được khám phá của Thánh Vinh Sơn về giáo hội của người nghèo. Tính độc đáo của cái nhìn Vinh Sơn về Giáo hội bắt nguồn từ việc coi giáo hội này như một thực tại lịch sử, một thực tế truyền giáo nhằm phục vụ người nghèo và đó cũng là sự tiếp nối sứ mệnh của Chúa Giêsu Kitô.[2]
Nhưng Thiên Chúa sẽ nói chuyện với ngài qua những kinh nghiệm khác nhau, những trải nghiệm này sẽ thanh tẩy tầm nhìn của Thánh Vinh Sơn về Giáo hội của Chúa Giêsu, một Giáo hội mà ngài khám phá ra qua 5 biến cố: đó là Giáo hội là Dân Thiên Chúa (kinh nghiệm ở Clichy), Giáo hội là nhà truyền giáo cho người nghèo- đặc tính truyền giáo (Gannes-Folleville), Giáo hội là “người Samaritan nhân hậu” ”- đặc tính bác ái, dành cho những người bị gạt ra ngoài lề xã hội (Châtillon), Giáo hội được hướng dẫn bởi Thánh Linh (Montmirail- Marchais), và một Giáo hội phổ quát và truyền giáo (truyền giáo ở Madagascar). Có thể để cập ở Beauvais, Thánh Vinh Sơn đã khám phá ra tầm quan trọng của việc đào tạo hàng giáo sĩ và ý nghĩa của các thừa tác vụ khác nhau trong Giáo hội.
1. Một Giáo hội mà ngài khám phá là Dân Chúa (kinh nghiệm về Clichy)
Niềm đam mê chức linh mục mà Thánh Vinh Sơn bắt đầu trải nghiệm đối với giáo xứ và giáo dân đã khiến ngài dấn thân vào một việc mục vụ có hai chiều kích: (a) chăm sóc tòa nhà và tài sản của Giáo hội và (b) trực tiếp hoạt động truyền giáo.
Về chiều kích thứ nhất, chúng ta được biết Thánh Vinh Sơn đã xây dựng lại Nhà nguyện Clichy mặc dù rất có thể nó không bị đổ nát như một số người viết tiểu sử đầu tiên của ngài đã nói. Những người viết tiểu sử về Vinh Sơn, trong nỗ lực củng cố con người của thánh nhân, đã làm sáng tỏ một số sự kiện cụ thể. Abelly, viết vào năm 1664, ngay sau cái chết của Thánh Vinh Sơn Phaolô, đã viết rằng bản thân nhà nguyện đang ở trong tình trạng tồi tàn và các lễ phục cũng như đồ thánh không phù hợp cho việc phụng vụ. Collet, viết vào năm 1748, đã sử dụng một tính từ mang tính mô tả và mãnh liệt hơn và tuyên bố: nhà nguyện của ngài đang đổ nát; nó không có đồ trang trí. Abelly nói tiếp: ngài đã thực hiện kế hoạch trùng tu, trong khi Collet tuyên bố: ngài đã xây dựng lại toàn bộ nhà nguyện của mình. Chúng ta sẽ không tham gia vào việc phân tích theo nghĩa đen và lịch sử về những sự kiện này. Chúng ta cũng không lo ngại về cách thức mà Thánh Vinh Sơn có được số tiền cần thiết cho việc xây dựng này. Điều chắc chắn là Thánh Vinh Sơn đã tham gia vào nhiệm vụ này và hoàn thành nó. Đây là một công việc khó khăn và mãi đến Tuần Thánh năm 1630 mới được hoàn thành. Như vậy biến cố này đề cập đến việc xây dựng giáo hội qua các cơ sở vật chất. Chăm lo xây dựng nhà nguyện và chăm lo mua sắm các đồ phụng vụ cho xứng hợp.
Chiều kích thứ hai của biến cố này: hoạt động mục vụ-truyền giáo-linh đạo của Thánh Vinh Sơn Phaolô, đó là mục tử của các linh hồn. Tại Clichy, Thánh Vinh Sơn đã khám phá ra điều mà nhiều thế kỷ sau một Giáo hoàng sẽ viết với những lời sau đây: “Truyền giáo thực sự là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo hội (Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, #14). Nói cách khác, Thánh Vinh Sơn đã nhận thức được tiếng gọi đặc biệt của Thiên Chúa, ngài đã nhận thức được sứ mạng được giao phó cho ngài khi được bổ nhiệm làm mục tử (cha xứ ở Clichy).
Khi Thánh Vinh Sơn còn làm mục tử tại Clichy, ngài nhận thức được thực tế rằng làm “mục tử- cha xứ” không chỉ là một chức danh, hay là sự thăng tiến trên bậc thang xã hội, hoặc là bước đầu tiên để đạt được những mục tiêu mới. Nhưng ngài nhận thức được rằng, với tư cách là mục tử, ngài được giao phó nhiều hơn là một vị trí địa lý, hoặc cơ sở vật chất nào đó. Thật vậy, vai trò mục tử của ngài được diễn đạt qua việc phục vụ những người giáo dân nam nữ tại giáo xứ clichy thân yêu này và biến đổi giáo xứ này bằng trái tim mục tử của mình theo tinh thần truyền giáo như Đức Giáo hoàng Phanxico đã nói gần đây: “Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng, lời kêu gọi duyệt lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ đến gần người dân hơn, biến các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo” (Evangelii Gaudium, # 28). Đó chính là điều Romano Guardini, một linh mục triết gia dòng Tên người Đức đã nói: “giáo hội đánh thức tâm hồn của con người.”
Trong Tông huấn niềm vui Tin Mừng Đức Phanxicô tiếp tục nói: “Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ, một môi trường để lắng nghe Lời Chúa, để lớn lên trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, để rao giảng, để làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành. Qua tất cả các hoạt động của mình, giáo xứ khuyến khích và đào tạo các thành viên của mình trở thành những nhà truyền giáo. Nó là một cộng đoàn của các cộng đồng, là chỗ tạm trú nơi mà những người khát đến uống nước để tiếp tục cuộc hành trình, và một trung tâm nhà truyền giáo liên tục đi ra” (Evangelli Gaudium, # 28).
Đáp ứng sự yêu cầu canh tân Giáo xứ vào ngày 20/7/2020 Bộ Giáo sĩ đã ban hành Huấn thị về việc “hoán cải mục vụ của cộng đồng giáo xứ để phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội”. Theo Huấn thị cần phải đổi mới mục vụ giáo xứ để có thể làm cho giáo xứ năng động hướng tới việc truyền giáo. Huấn thị mô tả giáo xứ là “một ngôi nhà giữa nhiều ngôi nhà” khi là dấu chỉ trường tồn của Đấng Phục Sinh ở giữa Dân Người và bản chất truyền giáo của nó là nền tảng cho việc truyền giáo.
Hơn bao giờ hết, để Giáo Hội tìm lại được vẻ đẹp rạng ngời của mình, người giáo dân được mời gọi cộng tác thực hiện một cuộc canh tân toàn diện đời sống Giáo xứ.
Đồng thời Đức Thánh Cha cũng nêu cao tầm quan trọng của các giáo xứ và các linh mục coi xứ: “Hội Thánh hiệp hành cần đến các linh mục coi xứ. Không có các linh mục, chúng ta sẽ không bao giờ có thể học cách cùng đi với nhau và cùng bước trên nẻo đường hiệp hành, là nẻo đường mà Thiên Chúa kỳ vọng nơi Hội Thánh trong thiên niên kỷ thứ ba…Nếu các giáo xứ không mang tính hiệp hành và thừa sai, thì cả Hội Thánh cũng sẽ thế” (Thư gửi các linh mục coi xứ, 02/5/2024). Ngài nói với các linh mục: “Điều thật hiển nhiên đến nỗi nghe có vẻ nhàm nhưng thực sự là thế: Hội Thánh không thể đi tới nếu không có sự tận tụy và công việc mục vụ của anh em. Vì thế trước hết tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn và sự trân trọng đối với công việc quảng đại mà anh em làm mỗi ngày, gieo hạt giống Tin Mừng trên mọi loại đất.”
2. Giáo hội là Nhà truyền giáo cho người nghèo (Gannes-Folleville),
Năm 1617 chứng kiến sự thành lập hiệu quả của một tổ chức khác của Thánh Vinh Sơn sau buổi xưng tội của người nông dân sống ở Gannes. Ở đây chúng ta đề cập đến việc thành lập Tu hội Truyền giáo. Nếu mọi thứ bắt đầu ở Châtillon thì trải nghiệm ở Folleville cũng hiệu quả không kém. Hoàn cảnh của cụ già hấp hối đã khiến Thánh Vinh Sơn rao giảng cho những người nam nữ tội nghiệp đó về sự cần thiết phải xưng tội chung. Mọi người cảm động trước những lời của Thánh Vinh Sơn và tất cả đều đến xưng tội. Ngoài lời nói, Thánh Vinh Sơn còn cảm thấy một lòng thương xót cháy bỏng đối với những anh chị em bị bỏ rơi đó. Sau này chính ngài thổ lộ: “Việc đó xảy ra vào tháng Giêng năm 1617, và vào ngày 25, lễ Thánh Phaolô Trở Lại, bà Gondi yêu cầu tôi giảng một bài giảng trong nhà thờ Folleville để kêu gọi dân chúng xưng tội chung, Tôi đã làm như vậy và chỉ ra cho họ tầm quan trọng và tính hữu ích của nó. Sau đó tôi dạy họ cách làm cho đúng… đó là bài giảng đại phúc đầu tiên của tu hội (CCD:XI:4). Đó chính là ngày thành lập Tu hội của chúng ta.
Dựa trên tất cả những gì chúng ta đã nói, chúng ta có thể khẳng định rằng giá trị hay linh đạo Vinh Sơn tiếp tục tồn tại và cần thiết ở thời điểm hiện tại, khi Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã từng tuyên bố: “Bộ mặt đích thực của lòng thương xót phải luôn được bộc lộ một cách mới mẻ. Bất chấp nhiều thành kiến, lòng thương xót dường như đặc biệt cần thiết cho thời đại chúng ta (Đức Gioan Phaolô II, thông điệp Thiên Chúa đầy lòng thương xót- Dives in Misericordia, #6).
Chúng ta thêm vào những ý tưởng này của Đức Bênêđíctô XVI, người mà trong thông điệp Ngày Thế giới Bệnh nhân năm 2011, đã nói: “Nếu mọi người đều là anh em của chúng ta, thì những người bệnh tật, đau khổ và những người cần được chăm sóc càng phải có mặt nhiều hơn nữa. trung tâm sự chú ý của chúng ta, để không ai trong số họ cảm thấy bị lãng quên hoặc bị gạt ra ngoài lề xã hội.” Tóm lại, nếu chúng ta đứng về phía những người đang sống trong cảnh khốn cùng, thì với tư cách là những người Vinh Sơn, chúng ta không thể đáp lại bằng lòng thương xót thực sự đối với nhu cầu của những người nam nữ nghèo trừ khi trước tiên chúng ta thâm nhập vào các cơ chế tạo ra nghèo đói, bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị loại trừ… trừ khi chúng ta cố gắng biến “các cơ cấu tội lỗi” và “các cơ chế xấu xa” trở thành chuyện quá khứ.
Để đi sâu hơn, chúng ta nên nhớ lại sự thật rằng ngày nay những tổ chức và những người nam nữ mà chúng ta gọi là thành viên của Gia Đình Vinh Sơn chia sẻ một linh đạo riêng của họ, một linh đạo đã được truyền lại cho họ bởi Thánh Vinh Sơn Phaolô và điều đó liên quan đến những sự kiện hình thành nên nhân cách, ơn gọi và sứ mạng của ngài. Nền linh đạo này, đặc điểm đặc biệt này, cũng là đặc điểm đặc biệt của Giáo hội, đó là “sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo”. Đối với những người con cái của Thánh Vinh Sơn Phaolô, lựa chọn này là một thực tại thần học. Bằng cách này, chúng ta muốn nói rằng đối với Giáo hội và đối với chúng ta “Thiên Chúa là người đầu tiên đã chọn người nghèo” và do đó, “chính nghĩa của người nghèo là chính nghĩa của Thiên Chúa” và “vấn đề của người nghèo là vấn đề của Thiên Chúa”. Thánh Vinh Sơn Phaolô đã không sử dụng những từ đó, nhưng cụm từ ngài đã sử dụng cũng truyền tải cùng một ý tưởng: người nghèo là gia nghiệp của chúng ta. Đối với Thánh Vinh Sơn Phaolô và những người theo ngài, người nghèo là gia nghiệp của họ…là đối tượng ưa thích của họ? phần độc quyền của họ? Về vấn đề này, chúng ta đề cập đến những đề nghị mà Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặt ra trước Giáo hội vào đầu thiên niên kỷ thứ ba khi ngài yêu cầu tất cả các Kitô hữu đặt cược mọi sự vào lòng bác ái, nghĩa là thực hiện một cam kết đối với tình yêu thiết thực và cụ thể đối với mỗi con người (Novo Millennio Ineunte, #49), một tình yêu được thể hiện với người nghèo một cách đặc biệt và ưu tiên để trong mọi cộng đồng Kitô giáo, những người nghèo sẽ cảm thấy như thể họ đang ở nhà.
Pierre Coste chỉ ra rằng các sự kiện ở Gannes và Folleville là nền tảng, siêu việt và soi sáng cho Thánh Vinh Sơn Phaolô và cuộc đời sau này của ngài: Sứ mệnh tại Folleville đã tiết lộ rõ ràng cho Thánh Vinh Sơn Phaolô những gì Chúa mong đợi nơi ngài. Khi rất nhiều linh hồn ở những làng quê này đang gặp nguy hiểm cho sự cứu rỗi đời đời của họ, liệu có phù hợp không khi anh ta dành phần lớn thời gian của mình trong phạm vi hẹp của một gia đình, dạy học cho hai hoặc ba đứa trẻ? Sau một cuộc đấu tranh lâu dài và khủng khiếp, Chúa đã giải thoát ông khỏi những cám dỗ chống lại Đức tin sau khi ngài quyết tâm cống hiến những ngày còn lại của mình để phục vụ người nghèo; theo Pierre Coste, những gì đã trải qua và sống ở Folleville là điều kiện quan trọng để Thánh Vinh Sơn nhận thức được ơn gọi cá nhân của mình. Pierre Coste nói rằng Chúa đã chỉ cho Vinh sơn một cách rất rõ ràng con đường phải theo. Vinh Sơn đã phải gác lại việc dạy kèm cho các con bà Gondi và giờ đây phải cống hiến hết mình cho việc hướng dẫn những người dân quê nghèo ở Pháp. Thánh Vinh Sơn đã phải chịu đựng những cám dỗ liên quan đến đức tin của mình, nhưng bây giờ giải pháp đã được thực hiện sẽ chấm dứt những cám dỗ đó…. quả thực, ngài bắt đầu làm theo những gì đã được chỉ ra cho ngài trong các sự kiện xảy ra ở Folleville. Sau đó, chúng ta thấy rằng Vinh sơn đã chọn con đường đã được chỉ cho ngài ở Folleville. Sự cám dỗ sẽ quay trở lại nếu cha thánh không rời khỏi de Gondis?
3. Giáo hội mang hình ảnh “Người Samaritan nhân hậu”- dành cho người bị gạt ra ngoài lề xã hội (Châtillon)
Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI đã viết: “Chương trình của người Kitô hữu – chương trình của người Samaritan nhân hậu, chương trình của Chúa Giêsu – là “một trái tim biết nhìn”. Trái tim này nhìn thấy nơi nào cần tình yêu và hành động phù hợp” (Deus Caritas Est, 31b). và trong một chỗ khác Đức giáo hoàng nói tiếp: “Mọi hành vi nghiêm túc và ngay thẳng của con người đều là hy vọng trong hành động. Điều này trước hết có nghĩa là… chúng ta nỗ lực hướng tới một thế giới tươi sáng hơn và nhân đạo hơn để mở ra những cánh cửa dẫn đến tương lai” (Spe Salvi, 35).
Thánh Vinh Sơn, nhờ nhận thức được sứ mệnh thực sự của mình trên thế giới này, đã trở thành người Samaritano nhân hậu. Tuy nhiên, sẽ là bất kính, nếu nói Thánh Vinh Sơn là người Samaritanô nhân hậu và quên mất Thánh Luca là người đã kể cho chúng ta một trong những câu chuyện Tin Mừng khó quên. Ai không thể đồng cảm với lòng thương xót được tỏ ra bởi người Samaritano, người được mệnh danh là “Tốt”… lòng thương xót của ông cũng giống như lòng thương xót của người cha với hai đứa con trong câu chuyện người cha nhân hậu (người đã bỏ nhà đi và người ở lại với cha) Ở đây, lòng thương xót của người Samaritanô đã trỗi dậy khi ông nhìn thấy người đàn ông bị đánh đập và bị cướp nằm bên vệ đường.
Thánh Vinh Sơn cũng chia sẻ lòng thương xót đó và cảm động trước tất cả những người nam nữ đang cần giúp đỡ đã hiện diện trước mắt ngài. Tất cả những gì ngài gặp phải khiến ngài càng lo lắng hơn vì mọi thứ liên quan đến đau khổ đều ảnh hưởng sâu sắc đến thánh nhân. “Lòng thương xót – như Chúa Kitô đã trình bày trong dụ ngôn người con hoang đàng – có hình thức nội tâm của tình yêu mà Tân Ước gọi là agape. Tình yêu này có thể đến với mọi đứa con hoang đàng, đến mọi nỗi khốn cùng của con người, và trên hết là mọi hình thức khốn khổ về luân lý, đến tội lỗi. Khi điều này xảy ra, người là đối tượng của lòng thương xót không cảm thấy bị hạ nhục mà trái lại được tìm thấy lại và “được phục hồi về giá trị” (Đức Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia, #6).
4. Giáo hội được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần (Montmirai – Marchais)
Louis Abelly, người viết tiểu sử đầu tiên về Thánh Vinh Sơn, nói rằng trong một chuyến công tác ở Montmirail (vào khoảng năm 1620), một kẻ dị giáo (một người Huguenot) sẵn sàng chống lại mọi lý lẽ, đã đưa ra một sự phản đối làm tổn thương Thánh Vinh Sơn Phaolô, những lời nói khiến ngài bị tổn thương cốt lõi của con người ngài, vì chúng đề cập đến một vấn đề mà ngài vô cùng quan tâm. Người này nói: “Thưa ông, ông đã nói với tôi rằng Giáo hội Rome được lãnh đạo bởi Chúa Thánh Thần, nhưng tôi thấy điều đó khó tin, vì một mặt, chúng tôi thấy những người Công giáo ở nông thôn bị bỏ rơi cho các mục tử ngu dốt và bị bỏ rơi, với quá ít sự hướng dẫn về bổn phận của mình đến nỗi hầu hết họ hầu như không biết đạo Công giáo là gì. Mặt khác, chúng ta thấy những thị trấn đầy rẫy các linh mục và tu sĩ không làm gì cả; có lẽ có đến mười nghìn người như vậy ở Paris, thế nhưng họ lại để lại những người dân quê nghèo trong tình trạng thiếu hiểu biết kinh khủng mà họ lạc lối trong đó. Và cha muốn thuyết phục tôi rằng tất cả những điều này đều được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần! Tôi sẽ không bao giờ tin được” (CCD:XI:28).
Trên thực tế, những lời đó là cách diễn đạt gay gắt nhất và táo bạo nhất về vụ bê bối đã gặm nhấm trái tim Vinh sơn trong ít nhất ba năm. Đương nhiên Thánh Vinh Sơn đã ứng biến bằng một số câu trả lời xin lỗi… nhưng sự thật vẫn là sự thật. Người Huguenot (kháng cách) đó, có lẽ hơi cường điệu, đã nhắc nhở Thánh Vinh Sơn về sự kiện là Giáo hội đã bỏ rơi người nghèo và rằng, trong thực hành mục vụ của mình, Giáo hội đã phá vỡ ba yếu tố thiêng liêng: Chúa Kitô-Giáo hội-Người nghèo.
Một năm sau, (1621), trong một nhiệm vụ khác nhưng lần này là ở Marchais, một thị trấn nhỏ bên ngoài Montmirail, người Huguenot, người không ai nhớ đến, đã tò mò muốn biết chuyện gì đã xảy ra trong cuộc đại phúc. Khi kết thúc tuần đại phúc, cá nhân đó đã không ngần ngại tiếp cận cha Vinh Sơn. Ông nói, “giờ đây tôi thấy rằng Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn Giáo hội La Mã, vì sự quan tâm đó được thực hiện trong việc hướng dẫn và cứu rỗi những người dân làng nghèo; Tôi sẵn sàng gia nhập bất cứ khi nào ngài muốn nhận tôi” (CCD XI:29).
Abelly kể rằng một ngày nọ, khi Thánh Vinh Sơn đang thuật lại sự kiện này cho các nhà truyền giáo, ngài đã thốt lên: “thật là một niềm hạnh phúc cho các nhà truyền giáo của chúng ta khi chứng minh được sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trên Giáo hội của Người bằng cách làm việc, như chúng ta đã làm, hướng dẫn và thánh hóa người nghèo” (CCD XI:30).
Nói cách khác, Thánh Vinh Sơn phát hiện ra rằng phản ứng xin lỗi và/hoặc phòng thủ là không có giá trị cũng như không thuyết phục. Vì vậy, hôm qua, hôm nay và ngày mai chỉ có một câu trả lời mạch lạc: “ưu tiên lựa chọn người nghèo như một biểu hiện hữu hình và đáng tin cậy của Giáo hội… một lựa chọn hiệu quả và đầy cảm xúc được thực hiện bằng sức mạnh đôi tay và mồ hôi trên trán của chúng ta” (CCD XI:32).
Sự kiện trọng tâm xảy ra ở Montmirail-Marchais có thể được tóm tắt bằng những lời sau đây dường như được lấy từ các tác phẩm của Thánh Vinh Sơn Phaolô nhưng thực ra được lấy từ tài liệu La Iglesia y los Pobres [Giáo hội và người nghèo]: sứ mệnh trở thành Giáo hội của người nghèo có hai ý nghĩa: chính Giáo hội phải là người nghèo và cũng phải là Giáo hội của người nghèo. Giống như cách Chúa Giêsu nghèo một cách triệt để và căn bản qua việc Nhập thể và sứ mệnh của Ngài thay cho người nghèo, giống như việc Nhập thể và sứ mệnh của Chúa Giêsu đã giúp Ngài hoàn thành công cuộc cứu chuộc và nhờ đó đạt được sự vinh hiển của mình, cũng như vậy Giáo hội của Chúa Giêsu, trong phong tục và việc truyền giáo, trong cách thức tự duy trì và hiện diện giữa thế giới, Giáo hội phải luôn phản ánh rằng mình thực sự là giáo hội của người nghèo. Vì vậy, mối quan tâm, sự dấn thân và kế hoạch của Giáo hội phải được hướng dẫn bởi sứ mạng phục vụ người nghèo của Giáo hội.[3] Điều này nhắc nhớ chúng ta về câu Tin Mừng Luca 4, 18-19.
Thánh Vinh Sơn đã khám phá ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trước hết trong đời sống Giáo hội, trong đời sống các cộng đoàn của ngài và các thành viên: Khi chúng ta nói rằng Giáo hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, điều đó có nghĩa là nói chung, khi Giáo hội nhóm họp trong các Công đồng, và cả một cách riêng tư, khi các tín hữu tuân theo những soi dẫn của đức tin và quy tắc công lý Kitô giáo (CCD XI:28). Một trong những dấu hiệu rõ ràng về sự hiện diện tích cực của Chúa Thánh Thần là việc Giáo hội tận tâm truyền giáo và phục vụ người nghèo. Việc truyền giáo cho người nghèo phải là tiêu chuẩn và dấu chỉ cho thấy Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn Giáo hội (CCD XI:30). người ta nói rằng Tu đoàn Truyền giáo là đã được khẳng định ơn gọi và sứ mệnh của mình nhờ các sự kiện xảy ra ở Montmirail-Marchais.
5. Giáo hội có tính cách phổ quát và truyền giáo (Madagascar)
Những nhà truyền giáo Vinh Sơn đầu tiên rời Pháp đến Madagascar vào ngày 21 tháng 5 năm 1648. Cuộc hành trình kéo dài khoảng 7 tháng và rõ ràng có rất nhiều nguy hiểm.
Năm 1642, Công ty Đông Ấn thuộc Pháp nhận được điều lệ từ Hồng y Richelieu để thành lập một sự kết hợp giữa Thuộc địa và Trạm Thương mại ở Madagascar. Việc bổ nhiệm một linh mục ban đầu không diễn ra tốt đẹp. Sau đó, Công ty quyết định rằng tình hình tôn giáo có thể được hỗ trợ tốt nhất bằng cách xin trợ giúp từ một cộng đoàn dòng tu. Sau khi tham khảo ý kiến của Sứ thần Giáo hoàng tại Paris, Đức Hồng y Niccolo Bagni, Bộ Truyền giáo đã được đề xuất. Sứ thần không hề biết rằng các tu sĩ Cát Minh đi chân đất đã được giao việc Tông đồ này. Thánh Vinh Sơn có nhiều bạn bè trong Công ty Đông Ấn và chính những lời thúc giục này cùng với mệnh lệnh của Sứ thần đã thuyết phục Thánh Vinh Sơn chấp nhận việc Tông đồ.
Thánh Vinh Sơn Phaolô là một nhân vật anh hùng, nhưng là một nhân vật không nhất thiết phải tìm kiếm hoặc nhận được sự ca ngợi như hầu hết các “anh hùng” đương thời của chúng ta. Ngài là một nhân vật thực hiện ơn gọi của mình trong sự im lặng lạnh lùng của sự ẩn danh và lòng nhiệt thành. Chính trong cách xử lý khác biệt này đối với khái niệm anh hùng, chúng ta bắt đầu hiểu được ý tưởng của Thánh Vinh Sơn về chức linh mục. Do đó, cũng chính trong khái niệm này mà chúng ta bắt đầu đánh giá cao tầm quan trọng của sứ mệnh Madagascar.
Đối với nhiều thành viên, vào thời điểm đó, Madagascar thật điên rồ và hoàn toàn phi lý. Đối với nhiều người, vô số cái chết dường như là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy họ đã đưa ra lựa chọn sai lầm. Đối với Thánh Vinh Sơn, những sự kiện này cũng là một dấu hiệu rõ ràng. Thánh Vinh Sơn, mặc dù thực sự đau buồn trước cái chết của các linh mục anh em của mình, nhưng lại coi cái chết của họ là một sự thực hành sống lý tưởng của chức linh mục. Madagascar đại diện cho sự hy sinh và thử thách tột cùng. Nó cho phép các nhà truyền giáo của tu hội sống chân thành về cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Thánh nhân coi sự đổ máu của họ là huyết sống của hội thánh. Thánh nhân thực sự tin rằng máu của những ki tô hữu này là hạt giống của Ki tô giáo. Như giáo phụ tertuliano đã nói: “Máu các thánh tử đạo trổ sinh các tín hữu”. Thánh Vinh Sơn hiếm khi hối hận về quyết định ban đầu của mình vì lời kêu gọi của Chúa để sống cuộc đời của Ngài liên tục được chứng minh qua những cuộc đấu tranh và cái chết ở Madagascar.
Thái độ của Thánh Vinh Sơn trong giữa tất cả những thử thách này được tìm thấy đặc biệt là trong các buổi đàm luận ngày 15 tháng 11 năm 1656 và của Ngày 25 và 30 tháng 8 năm 1657. Abelly nói về tình huống này: Chắc chắn sau tất cả những khó khăn này thử nghiệm, có một số lý do để nghi ngờ liệu Chúa có muốn lợi dụng ngài và người của Tu hội thi hành sứ mệnh xa xôi khủng khiếp này; Nhưng vào năm 1657 thánh nhân nói (và chúng ta thấy thái độ thực sự trong những trường hợp này): “Ai đó từ tu hội này sẽ có lẽ nói rằng chúng ta phải từ bỏ Madagascar. Mặt xác thịt sẽ nói rằng chúng ta không được cử bất cứ ai ở đó nữa, nhưng tôi chắc chắn rằng Chúa Thánh Thần lại nói khác.” Chính kiểu phục vụ khiêm tốn nhưng tận tâm này cho các sứ mệnh bị bỏ rơi đã khiến Madagascar trở nên hấp dẫn hơn đối với Vinh Sơn.
Việc Thánh Vinh Sơn từ chối từ bỏ sứ vụ ở Madagascar cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tầm nhìn linh mục của ngài. Chức linh mục của Thánh Vinh Sơn là một ơn gọi anh hùng. Trong nhiều trường hợp, ngài đã mượn những ẩn dụ từ chiến tranh và xung đột để truyền đạt suy nghĩ của mình. Trong một bài phát biểu nổi tiếng về cơ bản là để bảo vệ quan điểm của mình, Thánh Vinh Sơn đã đặt câu hỏi một cách hùng hồn về tính cách của những người chất vấn ngài. Ngài nói về sự hèn nhát và nam tính, cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về mẫu người mà Thánh Vinh Sơn coi là một linh mục lý tưởng. Ngài so sánh tu hội với đội quân của Chúa đã chịu một số thương vong trong một cuộc chiến cần phải thắng. Động cơ hèn nhát thường được trích dẫn.
Các anh em Vinh Sơn đã chết ở Madagascar là cái giá mà Tu hội phải trả để duy trì sự sống của mình. Thánh Vinh Sơn cũng phải trả giá cho sự tín nhiệm của mình. Cần phải có lòng can đảm lớn lao và khả năng lãnh đạo gương mẫu để đặt uy tín của bản thân lên hàng đầu. Ngài cũng cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về cái chết ở cấp độ cá nhân và tổ chức. Nó buộc chúng ta phải đặt câu hỏi về những giai đoạn của cái chết và sự sống trong cuộc đời của chính mình. Có thể nói rằng Thánh Vinh Sơn quan tâm đến việc cứu rỗi các linh hồn. Tuy nhiên, điều mà ngài coi là sự cứu rỗi và linh hồn nào mà ngài quan tâm nhất, cần phải phân tích sâu hơn.
Tuy nhiên điều chúng ta đang cố gắng minh họa là trong sự tàn phá, trong cái chết, thánh vinh sơn nhìn thấy cơ hội và hy vọng. Madagascar còn hơn cả thần học của mình, Thánh Vinh Sơn biến nó thành tấm gương nền tảng cho các thành viên của Tu hội và hơn thế nữa. Ngài coi sứ mệnh ở Madagascar như một lời kêu gọi làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Việc Thánh Vinh Sơn luôn luôn làm theo ý muốn của Chúa không bao giờ có thể cho phép ngài từ bỏ Madagascar. Không có gì thử thách một niềm tin vững chắc như hậu quả của cái chết. Đây lẽ ra là nền tảng cho quyết tâm kiên quyết không từ bỏ hơn bất cứ điều gì khác của thánh nhân và thay vì làm giảm bớt nhận thức này, Madagascar còn đào sâu nó hơn. Tính cách chứng nhân và tử đạo của giáo hội, một tính cách có tính phổ quát và truyền giáo của Giáo hội.
Tuy nhiên, sự điên rồ của tất cả buộc người ta phải đào sâu hơn. Kinh nghiệm ở Madagascar giúp chúng ta hiểu được bản chất của ơn gọi. Madagascar không phải về số liệu thống kê mà là về nhân chứng. Đó là một ví dụ vượt thời gian, có thể được tất cả các tín hữu Vinh Sơn tiếp cận cho đến tận thế, về những yêu cầu và cái giá của việc chân thành đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, trong bối cảnh của một đời sống thánh hiến. Madagascar rất quan trọng vì nhiều thế kỷ sau, những ai muốn theo Thánh Vinh Sơn có thể đọc và hiểu Thánh Vinh Sơn muốn chúng ta trở thành gì. Ở Madagascar, chúng ta liên tục nhận ra hai lời kêu gọi. Lời kêu gọi làm linh mục và lời kêu gọi hiểu biết về chức linh mục theo phong cách Vinh Sơn. Các giá trị tiềm ẩn trong kinh nghiệm Madagascar cũng mang lại lợi ích cho tất cả các thành viên trong các giai đoạn khác nhau của ơn gọi. Những kinh nghiệm như thất bại, mất mát, xa lánh và nghi ngờ đều là những điểm quan trọng trong đời sống thánh hiến. Madagascar trấn an về sự mâu thuẫn Kitô giáo, rằng tại nhiều thời điểm trong cuộc sống của chúng ta, thành công đôi khi có thể được ngụy trang dưới dạng thất bại.
Kết luận
Giáo hội, nơi chàng trai trẻ Vinh Sơn Phaolô tìm thấy chính mình và tìm kiếm sự nghiệp trong đó, là một cộng đoàng có tính phẩm trật, mang tính chất giáo sĩ. Kinh nghiệm của Clichy (1612-1613) đã thanh tẩy và làm phong phú thêm quan niệm của ngài về Giáo hội bởi vì ở đó ngài phục vụ mọi người và chức linh mục của ngài đã phục hồi ý nghĩa của việc phục vụ thay mặt dân Chúa.
Một cột mốc quan trọng khác trong hành trình thiêng liêng của ngài là trải nghiệm ở Gannes-Folleville, nơi ngài khám phá ra rằng Giáo hội tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu Kitô khi truyền giáo cho người nghèo một cách ưu tiên. Ở Châtillon (1617), Thánh Vinh Sơn đã khám phá ra yếu tố thứ hai trong sứ mệnh truyền giáo của mình: lòng bác ái và sự dấn thân của giáo dân trong sứ vụ giáo hội này. Những kinh nghiệm khác cũng sẽ ảnh hưởng đến cuộc đời và tầm nhìn của ngài về Giáo hội. Montmirail (1620-1621) đánh dấu việc khám phá ra thực tế rằng việc truyền giáo cho người nghèo phải là một “dấu ấn” của Giáo hội và là tiêu chí xác minh sự thật rằng Giáo hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn; sứ mệnh truyền giáo ở Madagascar (1648) đã giúp Thánh Vinh Sơn hiểu được tính phổ quát của dân Chúa và ơn gọi truyền giáo của ngài.
Trong những sự kiện đã ảnh hưởng đến sự hiểu biết của Thánh Vinh Sơn, chúng ta khám phá ra rằng học thuyết về Giáo hội của ngài bắt nguồn từ kinh nghiệm sống của ngài và do đó, là công thức của kinh nghiệm của chính ngài. Đối với Thánh Vinh Sơn, “các biến cố” mang tính chất “Tin Mừng” và “ngôn sứ” như Sanchez Mallo đã nhận xét rất xác đáng về thánh nhân.
Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM
[1] A. Dodin, Lecciones Sobre Vicencianismo [Vincentian lessons], CEME, Salamanca, 1978, p. 66.
[2] M.A. Sagastagoitia, Vicente de Paúl y la Misión [Vincent de Paul and the Mission], CEME, Salamanca, 2006, p. 184.
[3] Episcopal Commission on Social Ministry, La Iglesia y Los Pobres [The Church and the Poor], PPC, Madrid, 1994, #25.