Thánh Vinh Sơn Phaolô Và Saul Alinsky: Những nhà tổ chức cộng đồng

Đăng ngày: 14/10/2025

Tác giả: CHARLES T. PLOCK, C.M.

Chuyển ngữ: Phêrô Võ Xuân Quang, CM

Bài giảng thường niên về Thánh Vinh Sơn Phaolô

Đại học DePaul, ngày 15 tháng 4 năm 1997

Chicago —-

một thành phố lộng gió,

môi sinh của loài bò và gấu,

nơi có Đại học DePaul – trường Đại học Công giáo lớn nhất Hoa Kỳ,

và là quê nhà của Saul Alinsky.

Thực tế là Đại học DePaul đã được thành lập tại thành phố Chicago;

thực tế là Saul Alinsky được sinh ra ở Chicago vào năm 1909 và thành lập tổ chức “Industrial Areas Foundation” ở đây vào năm 1940;

thực tế là tôi đã tham gia vào một số loại hình tổ chức cộng đồng trong hai mươi ba năm qua;

thực tế là tôi là một thành viên của Tu Hội Truyền Giáo được thành lập bởi thánh Vinh Sơn Phaolô —-

tất cả những thực tế này đã khiến tôi suy ngẫm về chủ đề của buổi thuyết trình hôm nay: thánh Vinh Sơn Phaolô và Saul Alinsky: những nhà tổ chức cộng đồng.

Đặt hai cá nhân này cạnh nhau có vẻ khá kỳ lạ. Ít nhất là vì họ không sống cùng thời đại với nhau. Thánh Vinh Sơn Phaolô sinh năm 1581, tại một ngôi làng nhỏ gần Dax, nước Pháp; ngày nay, ngôi làng này được mang tên Vinh Sơn Phaolô, nhưng trước đây nó được gọi là Pouy. Trong khi đó, Saul Alinsky được sinh ra ở Chicago vào năm 1909.

Hai nhân vật khác biệt này có điểm gì chung?

Trước hết, Saul Alinsky và thánh Vinh Sơn cùng đặt ra những câu hỏi về tình trạng thời đại, tức là những câu hỏi về cấu trúc xã hội và Giáo hội, hiện đang tồn tại trong thời đại họ sống. Họ đã đặt ra những câu hỏi hóc búa, và được thúc đẩy để thực hiện những hành động táo bạo.

Cả hai nhân vật này đều rất thực tế và có định hướng. Họ cũng suy tư và lượng giá về những công việc và những tiến trình hành động, để khám phá những lãnh vực mới mẻ, hầu có thể đưa ra những hành động tiếp theo. Điều này lại khiến họ có những bước đi táo bạo hơn.

Thiên tài của thánh Vinh Sơn và Saul Alinsky là khả năng thiết lập mối tương quan với mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội, và huy động nguồn lực của họ để thực thi sứ vụ.

Saul Alinsky xác định “sứ vụ” là: giúp người cùng khổ lấy lại tư cách của một công dân ; giúp họ khôi phục niềm tin vào bản thân và khả năng định hướng, để viết nên lịch sử của cuộc đời mình ; giúp cho họ có niềm vui, vẻ đẹp, tình yêu và cơ hội để sáng tạo. Đối với Alinsky, sứ vụ bao gồm sự cần cù, đồng cảm, lắng nghe, và nỗ lực làm việc chăm chỉ hơn.

 Thánh Vinh Sơn trình bày rõ ràng về “sứ vụ”, khi ngài nói chuyện với các thành viên trong Tu Hội của ngài: “Chúng ta thật hạnh phúc biết bao khi được đảm nhận chính sứ vụ của Chúa Giêsu – sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho người nghèo. Thực vậy, chúng ta nên giúp đỡ người nghèo bằng mọi cách. Chúng ta nên hỗ trợ họ bằng vật chất. Chúng ta nên hỗ trợ họ về tinh thần. Chúng ta nên tự mình hỗ trợ họ cũng như với sự giúp đỡ của những người khác. Thực thi những điều này chính là rao giảng Tin Mừng bằng lời nói và bằng việc làm.”[1] Đối với thánh Vinh Sơn, sứ vụ cũng bao gồm sự cần cù, đồng cảm, lắng nghe, và nỗ lực làm việc chăm chỉ hơn.

Cả hai nhân vật này đều xem sứ vụ như là sự trợ giúp người khác làm chủ cuộc đời họ, thông qua các mối tương quan; và cả hai đã làm việc không mệt mỏi vì những người bị bỏ rơi, bị ruồng rẫy, bị xã hội lãng quên. Họ lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói, và tương trợ những người cảm thấy bất lực.

Trên hết, thánh Vinh Sơn và Saul Alinsky đã nhìn nhận thế giới như nó là – với tất cả những hứa hẹn và hy vọng, với tất cả những vấn đề và giả dối của nó. Tôi nhấn mạnh điểm này bởi vì chúng ta thường xuyên bị cám dỗ nhìn thế giới như chúng ta muốn – thế giới trong mơ và tưởng tượng của chúng ta, nơi cái thiện luôn chiến thắng trong cuộc đấu tranh với cái ác ; nơi sự hòa hợp, hòa bình và sự hiểu biết lẫn nhau luôn ngự trị cách tuyệt đối. Tuy nhiên, thế giới giấc mơ của chúng ta, vùng đất tưởng tượng của chúng ta, lại dẫn đến chủ nghĩa trốn chạy thực tế cùng với sự thờ ơ và lười biếng. Nó cám dỗ chúng ta khoanh tay lại và nhìn thế giới trôi qua. Nó cám dỗ chúng ta tìm kiếm sự thoải mái, dễ dãi và những thú vui cho riêng mình.

Một lưu ý bên lề ở đây: thánh Vinh Sơn đã có những lúc bị cám dỗ thích sống trong thế giới trong mơ và tưởng tượng của riêng ngài. Là một linh mục mới được phong chức, ngài tìm kiếm sự thăng tiến trong xã hội thông qua một số ân nhân giàu có ; họ có thể tạo điều kiện cho ngài nghỉ hưu trong danh dự và sống một cuộc đời sung túc. Vì không tìm được vị ân nhân như vậy, và phải đối mặt với khoản nợ ngày càng chồng chất, ngài biến mất cách bí ẩn. Khi xuất hiện trở lại, ngài đã kể một câu chuyện tuyệt vời về việc bị cướp biển bắt, bị bán làm nô lệ ở Tunis, phải sống trong cảnh bị giam cầm, phải phục vụ một ngư dân, một nhà hóa học và cuối cùng một người nông dân. Sau cuộc cải đạo của người chủ cuối cùng, ngài trốn thoát trên một con thuyền nhỏ và trở về Pháp hai năm sau đó. Tôi luôn luôn mong muốn có dịp được nói chuyện với thánh Vinh Sơn, để hỏi ngài đã thực sự làm gì trong giai đoạn này. Đối với tôi, có lẽ đây là cuộc phiêu lưu kéo dài hai năm, hay một giai đoạn phù phiếm trước khi trở nên nghiêm túc.

Trở lại vấn đề “thế giới như nó là”, nghĩa là một thế giới theo bản chất của nó, thì hoàn toàn khác biệt với thế giới trong trí tưởng tượng của chúng ta.

Thế giới theo bản chất của nó, là một đấu trường của quyền lực chính trị, được thúc đẩy chủ yếu bởi lợi ích cá nhân. Trong đó, công ích và nhân quyền chỉ là một phần của cuộc đối thoại chính trị, nhưng thường chỉ ở mức độ những ý tưởng cao đẹp hay những lời lẽ hoa mỹ về mặt chính trị, nhưng nhanh chóng bị gạt sang một bên, vì lý do an ninh quốc gia và lợi ích kinh tế.

Thế giới theo bản chất của nó, là một thế giới của những góc cạnh chứ không phải của những thiên thần (angles not angels) ; một thế giới mà người ta nói về những nguyên tắc đạo đức, nhưng lại hành động theo những nguyên tắc quyền lực ; một thế giới nơi mà sự hòa giải thường có nghĩa là một bên chiến thắng, và bên kia phải chấp nhận thực tế đó.

Thế giới theo bản chất của nó, là nơi mà các tổ chức tôn giáo thường xuyên ủng hộ và biện minh cho hiện trạng thời đại, mà quên đi những lời mời gọi căn bản của của Chúa Giêsu, trong giáo huấn và hành động của Ngài.

Thế giới theo bản chất của nó, là nơi mà giải pháp cho một vấn đề sẽ tạo ra một vấn đề mới ; một thế giới quan niệm rằng: không có kết cục hạnh phúc hay đau khổ vĩnh viễn ; một thế giới mà cuộc sống là một trận chiến và trái đất là một chiến trường ; một thế giới mà mọi thứ đều liên quan đến nhau và phụ thuộc lẫn nhau ; trong đó, mọi điều tích cực đều tiềm ẩn điều tiêu cực, và mọi điều tiêu cực đều tiềm ẩn điều tích cực ; một thế giới không có đồng minh vĩnh viễn và không có kẻ thù vĩnh viễn.

Nhìn nhận “thế giới theo bản chất của nó” sẽ tạo nên sự khác biệt. Trong trường hợp của thánh Vinh Sơn, nhãn quan này đã giúp ngài có khả năng cứu vớt những nạn nhân của chiến tranh, nạn đói và bệnh dịch, đồng thời hỗ trợ họ bằng cách thành lập các bếp tình thương, để cung cấp cho người nghèo lương thực, quần áo và thuốc men. Ngài đã đáp ứng những nhu cầu ngắn hạn trước mắt này. Nhưng Ngài cũng nhận thấy một thực tế to lớn hơn và cố gắng hòa giải các phe phái. Nỗ lực này đã thất bại và khiến ngài bị loại khỏi Hội Đồng Cố Vấn Lương Tâm, vốn được thành lập để quản lý Giáo hội Pháp. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý ở đây là: cả những nhu cầu ngắn hạn và các giải pháp dài hạn đều là trọng tâm của các hoạt động của thánh Vinh Sơn.

Thánh Vinh Sơn đã xây dựng những phương thức mới, để những phụ nữ cũng có thể đóng góp vào sứ vụ của giáo hội; ngài cũng đón nhận họ như những cộng tác viên trong công cuộc truyền giáo cho người nghèo. Tại Pháp, Hội Các Bà Bác Ái được thành lập ở khắp nơi để hỗ trợ người nghèo. Sau này, để việc phục vụ được ổn định hơn, Tu Hội Nữ Tử Bác Ái đã được thành lập. Theo Hiến pháp, những Nữ Tử Bác Ái này sẽ tuân giữ các lời khấn theo một cách thức mới. Họ sống trong những ngôi nhà thay vì tu viện, hành lang tu viện của họ là đường phố, nội vi của họ là lời khấn với Chúa và phục vụ người nghèo. Hình thức tu trì này chưa từng được biết đến, một lối sống có tính cách mạng và không thể tưởng tượng được trong Giáo hội Pháp ở thế kỷ 17. Nhưng thánh Vinh Sơn đã đặt câu hỏi: “Tại sao phụ nữ không thể tham gia một cách trọn vẹn vào sứ vụ của Giáo hội?” Và rồi Ngài đã hành động để cho nhãn quan ấy trở thành hiện thực.

Thánh Vinh Sơn cũng nhận thấy tình trạng đáng buồn của Giáo hội và đặt ra câu hỏi: “Tại sao Giáo Hội thiếu những Linh mục có khả phục vụ nhân loại, đặc biệt là người nghèo?” “Tại sao Giáo Hội thiếu những Giám mục có khả năng nuôi dưỡng, và kiện toàn những con người đang khao khát sự hiểu biết về Thiên Chúa?”

Nhờ ảnh hưởng của Ngài, các chương trình thường huấn dành cho giáo sĩ và sau đó là chủng sinh, đã được thiết lập để bảo đảm rằng các linh mục tương lai có thể được huấn luyện và đào tạo, để thực thi các tác vụ mục vụ và phụng vụ. Thánh Vinh Sơn cũng có ảnh hưởng trong việc bổ nhiệm các Giám mục, những vị này chỉ được bổ nhiệm, sau khi đã chứng minh được khả năng chăm sóc và cộng tác với giáo dân trong giáo phận của họ.

Thánh Vinh Sơn đã nhận thấy tình trạng áp bức và vô nhân đạo mà những nô lệ trên những chiến thuyền phải chịu đựng, cũng như việc các cha tuyên úy của họ đã đấu tranh, để họ được đối xử nhân đạo hơn. Sau đó, ngài đã đạt được thành công trong việc kiến tạo các nhà tù nhân đạo hơn, và thành lập một tổ chức để giúp đỡ cho gia đình của các tù nhân.

Đúng vậy, quyết định của thánh Vinh Sơn trong việc nhìn “thế giới theo bản chất của nó” đã tạo nên sự khác biệt cho người dân Pháp thế kỷ 17. Thánh Vinh Sơn đã đáp ứng những nhu cầu ngắn hạn trước mắt, trong những tình huống đòi hỏi phải hành động nhanh chóng. Tuy nhiên, ngài không chỉ hài lòng với việc giải quyết các nhu cầu ngắn hạn ấy, đúng hơn, ngài tìm cách tái cơ cấu các tổ chức, nhằm loại bỏ những nguồn gốc sinh ra bất công, vốn làm phát sinh ra những nhu cầu ngắn hạn đó.

Chúng ta hãy lắng nghe những lời của vị linh mục giảng lễ an táng của thánh Vinh Sơn Phaolô, như là bằng chứng cho những công việc của ngài: “Bộ mặt nước Pháp đã thay đổi nhờ những việc làm của thánh Vinh Sơn Phaolô.”[2]

Trong trường hợp của Saul Alinsky, việc ông quyết định nhìn “thế giới theo bản chất của nó”, cũng đã tạo nên sự khác biệt.

Chúng ta hãy chiêm ngưỡng những nỗ lực của Alinsky nhằm thay đổi vùng “Back-of-the-Yards” ở Chicago (chủ đề cuốn sách “The Jungle” của tác giả Upton Sinclair). Alinsky bước vào thế giới của người lao động, và thực hiện những thay đổi bền vững cho điều kiện làm việc của những người lao động này.

Hãy chiêm ngưỡng cách mà Alinsky chất vấn công ty Eastman Kodak và trường đại học Rochester ở New York, về vấn đề phân biệt chủng tộc. Sau đó, Alinsky đã không được chào đón ở New York, và đã có một cuộc tẩy chay trên báo chí để làm mất uy tín của ông. Nhưng thay vì đáp trả các đối thủ của mình, Alinsky lại cư xử cách hài hước và làm cho họ mỉm cười. Chiến thuật của ông đã mang lại những cơ hội việc làm và điều kiện học tập, cho người Mỹ gốc Phi ở thành phố đó.

Điều tương tự cũng xảy ra khi ông thiết lập cộng đồng người Mỹ gốc Mêxicô ở California.

Để tri ân ông, tổ chức “Industrial Areas Foundation” do ông thành lập năm 1940 vẫn đang phát triển và tận tâm với sứ mệnh của mình, vẫn lên tiếng và hành động thay cho những người cùng khổ, vẫn nỗ lực thay đổi hình thức kinh doanh truyền thống, trong các tổ chức chính phủ và giới doanh nghiệp.

Ngày nay, tất cả những nhà tổ chức cộng đồng đều tỏ lòng biết ơn đối với tài năng, sự hiểu biết sâu sắc và chiến lược của Saul Alinsky. Thật vậy, hai cụm từ “tổ chức cộng đồng” và “Saul Alinsky” đã trở nên đồng nghĩa với nhau.

Về việc nhận thức “thế giới theo bản chất của nó”. Vào năm 1997, sự hiện hữu của chúng ta phụ thuộc vào việc chúng ta nội tâm hóa nguyên tắc này. Chỉ khi nào chúng ta nhìn thế giới theo bản chất của nó, với tất cả những mâu thuẫn và những lời tán dương của nó, chỉ khi đó, chúng ta mới có thể đối mặt với những vấn đề thời đại, và cùng nhau mang lại những thay đổi để thực sự tác động đến cuộc sống của nhiều người trong xã hội.

Tổ chức nhân sự và việc trợ giúp con người là một phương pháp rao giảng Tin Mừng của Tu Hội Truyền Giáo. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, việc tổ chức đời sống cho người nghèo và hỗ trợ họ trở thành Tin Mừng (empowering them to be Good News), là yếu tố thiết yếu của tiến trình truyền giáo, và của sứ vụ mà chúng ta đang thực hiện.

Nếu chúng ta thực hiện ơn gọi của mình một cách nghiêm túc – và tất cả chúng ta đều được kêu gọi để ưu tiên phục vụ người nghèo – thì việc xây dựng các cộng đồng là cách duy nhất để loại bỏ các cơ chế áp bức và nô dịch người khác. Xây dựng cộng đồng cho người nghèo là cách duy nhất để tiếng nói và tiếng kêu cứu của người nghèo được lắng nghe, và cũng là cách duy nhất để người nghèo có thể viết nên lịch sử của họ.

Kinh nghiệm cá nhân của tôi về việc tổ chức cộng đồng khiến tôi tin rằng: không một người nào, không một nhóm nào, không một tổ chức nào có đủ nguồn lực hoặc sức ảnh hưởng, để đương đầu và mang lại sự thay đổi cần thiết, để làm cho con người được chung sống với phẩm giá cao hơn, tức là được sống như con cái Thiên Chúa, vốn được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài.

Vì không một nhóm riêng lẻ nào có thể làm được điều này, nên cần phải xây dựng các cộng đồng. Nhưng việc xây dựng cộng đồng sẽ diễn ra lâu dài, từ ngày này qua ngày khác, và từ tháng này qua tháng khác. Việc xây dựng cộng đồng bao gồm một quá trình đối thoại trực tiếp, lắng nghe những câu chuyện, những giấc mơ, những hy vọng, những nỗi sợ hãi của người khác. Chúng ta hãy suy nghĩ về thực tế là: rất hiếm khi chúng ta có những cơ hội, để kể lại câu chuyện của chúng ta với một người sẵn sàng lắng nghe – người nghèo thì còn hiếm hơn nữa, họ rất khó có cơ hội để kể lại câu chuyện của họ. Việc kể lại câu chuyện của mình là yếu tố cần thiết cho việc xây dựng cộng đồng, vì trong quá trình kể chuyện và lắng nghe, người ta có thêm nguồn sức mạnh và có thể viết nên những câu chuyện mới mẻ.

Yếu tố thứ hai trong việc xây dựng cộng đồng là lựa chọn vấn đề để giải quyết. Những vấn đề này thường nảy sinh từ những câu chuyện mà người nghèo kể lại, hoặc từ những nguy cơ xuất hiện trong cuộc sống của họ. Sau khi chọn lựa được vấn đề cần giải quyết, thì việc nghiên cứu vấn đề là rất quan trọng. Các câu hỏi sau đây cần phải được nêu lên: đâu là kẻ thù tiềm tàng trong cuộc sống của chúng ta? Đâu là đồng minh tiềm năng của chúng ta? Chúng ta đang có những nguồn lực nào? Ai có khả năng thực hiện những thay đổi? Nguồn lực nào có thể thay đổi tình hình hiện tại? Làm sao để thực thi một tình huống đôi bên cùng có lợi? (Chúng ta không cố gắng tiêu diệt và đánh bại kẻ thù, nhưng cố gắng tạo ra những tình huống, mà tất cả các bên đều có thể giành chiến thắng). Những câu hỏi như thế này sẽ hướng dẫn cho những nhóm có thể tự tổ chức đời sống của họ, để đối phó với các vấn đề đang ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, một cuộc sống được xem như là một cộng đồng.

Sau đây là một số ví dụ có thể minh họa cho luận điểm này.

Vào năm 1975, tôi đã tham gia vào việc tổ chức công đoàn gồm 1.000 công nhân, tại các trang trại trồng chuối của chính phủ ở Cộng hòa Panama. Trong giai đoạn đầu, để đạt được thành công, chúng tôi phải nhờ đến sự giúp đỡ và hỗ trợ của các nhóm khác. Quá trình này không chỉ đơn giản là trình bày kiến ​​nghị tới Sở Lao động về việc được công nhận công đoàn. Đúng hơn, những kiến ​​nghị này cần phải được hỗ trợ bởi những nhóm người sẵn sàng đoàn kết, và cùng hành động thay cho các công nhân trong các trang trại chuối.

Vì vậy, vài tháng trước khi tuyên bố đình công, các cuộc đàm phán đã được tổ chức, với sự tham gia của các công đoàn vận tải ở các thành phố lớn ở Panama; các cuộc đàm phán khác đã được tiến hành với các công nhân của đồn điền trồng chuối Independent Farms, cũng như các công nhân ở đồn điền United Brands. Các cuộc đàm phán sau đó đã được tổ chức với sự tham dự của Đức Giám mục Chiriqui. Tất cả các nhóm này đều đồng ý ủng hộ cuộc đình công và nỗ lực tổ chức công đoàn. Vào ngày đình công, khi các công nhân trồng chuối đều nghỉ việc và kiểm soát các đồn điền, thật tuyệt vời khi được chứng kiến hệ thống giao thông vận tải cũng bị đình trệ ở thủ đô và các thành phố khác trong cả nước; thật tuyệt vời khi được nhìn thấy công nhân ở trang trại United Brands và Independent Farms cũng nghỉ việc; thật tuyệt vời khi nghe thấy giọng nói của Đức Giám mục Chiriqui trên đài phát thanh tuyên bố ủng hộ những người đình công ; thật tuyệt khi được nhìn thấy mọi người mang thức ăn và cà phê cho những người đình công và gia đình của họ.

Càng tuyệt vời hơn khi ngày hôm sau, Tòa án tối cao Panama tuyên bố cuộc đình công là hợp pháp và ra lệnh cho chính phủ phải tham gia các cuộc đàm phán về hợp đồng lao động. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Panama, một cuộc đình công được tuyên bố là hợp pháp. Công đoàn – ước mơ và niềm hy vọng của người lao động đã trở thành hiện thực.

Như tôi đã suy ngẫm về sự kiện này, tôi tin chắc rằng công đoàn sẽ không bao giờ tồn tại, nếu không có sự hỗ trợ của các nhóm đã trở thành đồng minh của chúng tôi trong cuộc đấu tranh này.

Một ví dụ khác gần với chúng ta hơn.

Ở nhiều thành phố hiện nay đang có phong trào đấu tranh để thông qua đạo luật về “mức lương đủ sống”. Tôi biết rằng: năm ngoái vấn đề này đã được nêu ra ở Chicago và đã bị loại bỏ chỉ vì thiếu sự hỗ trợ.

Ở New York, tại đại hội của New York Metro Industrial Areas Foundation diễn ra vào tháng 2 năm 1995, một tài liệu làm việc đã được trình bày cho một thành viên của hội đồng thành phố, và ông ta đã cam kết sẽ trình bày dự luật này trước toàn thể hội đồng. Một nhóm công nhân đã đi từ Baltimore đến New York, để chia sẻ với hội đồng thành phố về cuộc đấu tranh của họ để thông qua đạo luật về “mức lương đủ sống” ở Baltimore (thành phố đầu tiên ở Hoa Kỳ ban hành đạo luật này). Nhiều người đã rất hăng hái và phấn khích, và tôi còn nhớ rất rõ những lời của một công nhân đến từ Baltimore: “Phải mất một năm để thông qua luật này ở Baltimore; ở New York này, hãy chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh kéo dài ít nhất 18 tháng.” Những lời này của ông đã có tính tiên tri.

Vào tháng 8 năm 1996, 19 tháng sau, đạo luật về “mức lương đủ sống” đã được hội đồng thành phố New York thông qua với 2/3 số phiếu, cho phép họ vượt qua quyền phủ quyết của thị trưởng Guiliani. Trong nỗ lực này, hàng ngàn người thuộc tổ chức Industrial Areas Foundation đã tham gia vào các cuộc đối thoại với các công đoàn, với Giáo Hội, với các tổ chức phi lợi nhuận, và với các nhà thầu khoán trong thành phố. Họ gặp gỡ từng thành viên của hội đồng thành phố (không chỉ một lần mà nhiều lần trong chiến dịch này), họ đi đến các thỏa thuận và dành rất nhiều thời giờ để bàn về các chiến lược và kế hoạch tương lai. Nhớ lại vào năm 1995, người ta nói rằng đạo luật này sẽ không bao giờ được thông qua, nhưng ngày nay, nó đã là một khoản luật chính thức.

Tiến trình đó có dễ dàng không? Thưa, không hề dễ dàng!

Có nhiều lúc mà hầu như cuộc đấu tranh đã thất bại. Nhưng một lần nữa, sức mạnh tập thể và việc xây dựng liên minh đã cho phép chúng tôi ăn mừng vào tháng 8 năm 1996, khi dự luật này trở thành đạo luật chính thức.

Tôi đã kể cho các bạn nghe về hai câu chuyện thành công. Nhưng cũng đã có những câu chuyện thất bại và thất vọng. Ba nỗ lực riêng biệt để tổ chức công đoàn ở nhà mày đường mía ở Panama lần nào cũng thất bại thảm hại, và chương trình phát triển nhà ở xã hội tại Brooklyn cũng là một thất bại nặng nề.

Tuy nhiên, theo năm tháng, niềm vui đã thay thế những thất vọng và nước mắt. Trong những năm ở Brooklyn, tôi đã thấy những bãi đất trống được dọn sạch, các tòa nhà bị bỏ hoang được xây dựng lại, và các tòa nhà khác được chuyển đổi thành tòa nhà dành cho người có thu nhập thấp, các khu nhà ở xã hội được sửa chữa, cảnh sát bảo vệ người dân nhiều hơn ; tôi cũng chứng kiến giai đoạn một và giai đoạn hai của Dự Án Nhà Ở tại Nehemiah (một dự án hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp có thể mua nhà), một nhà máy tái chế được xây dựng, các ổ ma túy bị xóa bỏ, nhiều sân chơi được xây dựng, người dân được đào tạo nghề và giới thiệu việc làm, các tổ chức tín dụng được thành lập. Vâng, có rất nhiều khoảnh khắc để ăn mừng.

Tất cả những điều này đã được thực hiện, bởi vì một dân tộc đã từng sợ phải ước mơ và hy vọng, nay được tổ chức và được trợ giúp để viết nên lịch sử của chính họ, thay vì nhờ người khác viết thay lịch sử cho họ.

Tất cả những điều này được thực hiện bởi những người đàn ông và những người phụ nữ, đã bị thuyết phục từ trong sâu thẳm tâm hồn họ rằng: có một quyền lực thực sự trong tình đoàn kết và sự tổ chức, và họ cũng học được cách để thực thi quyền lực đó vì lợi ích chung, và do đó, họ đã viết nên những chương mới trong quyển sách lịch sử của chúng ta.

Sau đây là một số nhận định ​​​​cuối cùng. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trong tông huấn Evangelii Nuntiandi đã khẳng định: “Nhiệm vụ chính yếu và cấp bách của người giáo dân không phải là thành lập và phát triển các cộng đoàn giáo hội – đó là nhiệm vụ riêng của các chủ chăn – cánh đồng truyền giáo của giáo dân là cả một thế giới rộng lớn và phức tạp, bao gồm chính trị, xã hội và kinh tế,… văn hóa, khoa học nghệ thuật, thế giới của toàn cầu hóa và những phương tiện truyền thông,… thế giới của tình yêu đại đồng, gia đình nhân loại, nền giáo dục cho trẻ em và thanh thiếu niên, thế giới của nghiệp vụ chuyên môn.”[3]

Tôi cảm thấy buồn vì chúng ta thiếu nguồn lực, thiếu đào tạo, thiếu sự hỗ trợ dành cho cả nam giới và phụ nữ, để họ thực hiện công việc truyền giáo rất quan trọng của họ, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã mô tả.

Có vẻ như chúng ta đã làm rất tốt việc đào tạo các thừa tác viên phụng vụ, những người đọc sách, các thừa tác viên Thánh Thể, ca đoàn, những người tiếp đãi, v.v. Có vẻ như chúng ta làm tốt công tác đào tạo các thừa tác viên giáo lý. Nhưng theo tôi, có vẻ như chúng ta không làm tốt việc đào tạo để giúp người ta đối diện với những vấn đề quan trọng mà họ gặp phải, khi xây dựng cộng đồng và xây dựng trời mới đất mới. Thách đó lớn nhất của chúng ta chính là điểm này.

Khi tuyên bố sứ mệnh của mình, quý vị đã phát biểu: “… trường đại học DePaul, với tư cách là một đại học lớn ở thành thị, sẽ gắn kết chặt chẽ với đời sống của một cộng đồng đang nhanh chóng trở nên toàn cầu.” Quý vị cũng nói về : “việc phát triển quan hệ đối tác với các tổ chức và đối tác khác, và đặc biệt quan tâm đến những thành viên bị thiệt thòi trong xã hội.”

Quý vị đã đặt ra một sứ mệnh rất lớn cho chính mình. Cầu mong những lời mà quý vị đã tuyên bố, sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho tất cả các thành viên khác tại đại học DePaul. Cầu mong sứ mệnh ấy tiếp tục thúc đẩy quý vị thực hiện những hành động tích cực hơn, để những người cùng khốn và không có tiếng nói trong thành phố này có thể quay sang quý vị và nói với lòng biết ơn: quý vị, Đại học DePaul, đã ở bên cạnh chúng tôi trong cuộc đấu tranh của chúng tôi ; quý vị, Đại học DePaul, đã trợ giúp chúng tôi và cho chúng tôi tiếng nói ; quý vị, Đại học DePaul, đã giúp chúng tôi viết nên một chương mới trong lịch sử Chicago.

Cho phép tôi kết thúc bằng cách diễn giải những lời của Saul Alinsky về triết lý cuộc sống và việc tổ chức cộng đồng của ông:

[Tổ chức cộng đồng là một cuộc đấu tranh. Nhưng đó là một cuộc đấu tranh được tiến hành với tinh thần lạc quan.] Tinh thần lạc quan mang lại hy vọng ; tinh thần lạc quan mang lại mục đích ; tinh thần lạc quan mang lại ý chí đấu tranh cho một thế giới tốt đẹp hơn. Không có tinh thần lạc quan thì không cần thiết phải tiếp tục sứ vụ. Nếu chúng ta coi cuộc đấu tranh như một cuộc leo núi, thì chúng ta phải hình dung rằng ngọn núi ấy không có đỉnh. Hãy hình dung là mặc dù chúng ta đã nhìn thấy đỉnh núi, nhưng khi chúng ta leo đến đỉnh núi ấy rồi, thì một đám mây u ám xuất hiện, và chúng ta cảm thấy mình giống như đang bị lừa gạt. Ngọn núi ấy cứ cao lên mãi. Giả như bây giờ chúng ta nhìn thấy “đỉnh núi thật” ở trước mặt, và cố gắng chinh phục nó, thì một lần nữa, chúng ta lại nhận ra rằng chúng ta đã bước vào một trò lừa bịp khác, đỉnh núi vẫn ở trên chúng ta. [Vì vậy, chúng ta đang tham gia vào một trận chiến vĩnh cửu, từ giai đoạn này đến giai đoạn khác].[4]

Chúng ta hãy trèo lên núi với tinh thần lạc quan.

Chúng ta hãy vui mừng và ăn mừng, ca hát và nhảy múa khi chúng ta đạt đến một giai đoạn mới.

Nhưng sau đó, chúng ta hãy trang bị lại thiết bị leo núi, rồi tiếp tục leo lên đỉnh núi và viết nên một chương mới của lịch sử, tại trường đại học DePaul này.

[1] Buổi Hội Thảo # 195, “Về Mục Đích Của Tu hội Truyền giáo,” ngày 6 tháng 12 năm 1658, trong tập sách của Cha Pierre Coste, CM., ed., Saint Vincent de Paul Correspondance, Entretiens, Documents, 14 Vols. (Paris: Librairie Lecoffre J. Gabalda, 1920-1926), 12:90.

[2] Trích bài điếu văn do Đức Giám mục Henri de Maupas du Tour đọc ngay sau cái chết của Thánh Vinh Sơn Phaolô, tháng 9 năm 1660.

[3] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, Về việc truyền giáo trong thế giới hiện đại (Tông huấn của Đức Giáo Hoàng, ban hành ngày 8 tháng 12 năm 1975), số 70.

[4] Saul Alinsky, Rules for Radicals (New York: Vintage Books, 1972), 21.