Đào tạo linh mục hôm nay: Đánh giá cách Giáo Hội tuyển chọn các ứng viên linh mục

Đăng ngày: 02/10/2025

Nghiên cứu mới đánh giá cách Giáo hội nhận định “sự phù hợp” của các ứng viên cho chức linh mục

Gina Christian

Theo một báo cáo mới gần đây cho rằng, các Đức Giám Mục Giáo phận và các Giám đốc ơn gọi phần lớn hài lòng với các chương trình đào tạo chủng viện của họ — nhưng vẫn còn một số khoảng cách giữa giáo sĩ và các chuyên gia sức khỏe tâm thần về vai trò của các đánh giá tâm lý thường kỳ, trong việc nhận định sự sẵn sàng của các ứng viên cho việc chịu chức linh mục.

Vào ngày 24 tháng 9 năm 2025, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng về mục vụ tại Đại học Georgetown và Học viện McGrath về Đời sống Giáo hội tại Đại học Notre Dame đã công bố báo cáo: “Đánh giá thực hành của Giáo hội trong việc nhận định sự phù hợp của các ứng viên cho chức thánh.”

Khảo sát các giám mục, các nhà lãnh đạo đào tạo chủng sinh được đại diện trong báo cáo

Báo cáo[1] dài 171 trang này là thành quả của “một dự án/quy trình lớn hơn của Học viện McGrath, bao gồm Hội nghị Cao cấp về Đào tạo”, nhà nghiên cứu Jonathon L. Wiggins của CARA, một trong những tác giả chính, giải thích trong email gửi cho OSV News.

Dự án được khởi xướng vào năm 2024 bởi Cha Thomas Berg, giáo sư thỉnh giảng về thực hành tại Học viện McGrath, người đã có các nghiên cứu và bài viết trải dài trên nhiều lĩnh vực thần học luân lý, đạo đức sinh học, khủng hoảng lạm dụng giáo sĩ và đào tạo chủng viện.

Dữ liệu báo cáo thể hiện kết quả từ năm cuộc khảo sát, thăm dò ý kiến ​​các giám mục giáo phận của Hoa Kỳ, các giám đốc ơn gọi giáo phận, các giám đốc chủng viện, các nhà đào tạo chủng viện và linh hướng, cùng các chuyên gia sức khỏe tâm thần làm việc với các chủng viện.

Tỷ lệ phản hồi cho mỗi nhóm khác nhau, với hơn một nửa (53%) các giám mục Công giáo trên toàn quốc, một phần ba (33%) với các giám đốc ơn gọi giáo phận và  59% với các giám đốc chủng viện tham gia, cùng với 111 nhà đào tạo chủng viện và linh hướng, và 59 chuyên gia sức khỏe tâm thần.

Đa số hài lòng với các chương trình đào tạo chủng sinh

Phần lớn các đức giám mục (90%) và giám đốc ơn gọi (84%) tham gia nghiên cứu cho biết họ hài lòng với các chương trình đào tạo tại chủng viện của mình, và 91% đến 96% trong số hai nhóm cho biết họ tổ chức các cuộc họp chuyên sâu với các chủng viện ít nhất một lần một năm, hoặc thường xuyên hơn, để thảo luận về các ứng viên.

Cả hai nhóm cũng “rất tin tưởng cách đặc biệt” vào cách các chủng viện của họ vun đắp sự cởi mở của các chủng sinh đối với việc phát triển đời sống thiêng liêng (với 55% đến 59% ‘rất tin tưởng’) và sự tham gia thường xuyên vào việc tự lượng giá (36% đến 49%).

Tuy nhiên, báo cáo đã tìm thấy ba lĩnh vực mà cả các đức giám mục và các giám đốc ơn gọi “ít có khả năng” bày tỏ sự tin tưởng lớn vào chủng viện của họ. Chỉ 19% đến 21% “rất tin tưởng” vào việc đào tạo các chủng sinh của họ về “việc quản lý lành mạnh các chứng loạn thần kinh hoặc các bệnh lý nhẹ của ứng sinh”, “cuộc sống lành mạnh với các vấn đề sức khỏe hoặc hạn chế về thể chất” (17%) hoặc “đối phó với các khuyết tật trong học tập” (16% đến 17%).

Các giám đốc, nhà đào tạo và chuyên gia sức khỏe tâm thần cũng chia sẻ niềm tin của các giám mục và giám đốc ơn gọi vào khả năng nuôi dưỡng sự cởi mở thiêng liêng (48% so với 62%) và sự tự lượng giá thường xuyên (22% so với 55%) của các chủng viện.

Ngoài ra, 32% đến 43% trong số ba nhóm khảo sát này cho biết, họ tin tưởng vào khả năng của các chủng viện trong việc giúp các chủng sinh xây dựng các mối quan hệ lành mạnh với người khác và tìm kiếm sự điều trị các vấn đề sức khỏe tâm thần như trầm cảm và lo âu.

Một số lĩnh vực đào tạo cần được cải thiện

Nhưng ba nhóm – những người có nhiều khả năng tương tác thường xuyên, hàng ngày với các chủng sinh – lại ít có khả năng tin tưởng nhất vào cách các chủng viện giúp những người trong quá trình đào tạo:

— Kiểm soát chứng loạn thần kinh hoặc các bệnh lý nhẹ (với 11% đến 23% cho biết họ “rất tự tin”).

— Nâng cao hiểu biết về những gì mà cuộc khảo sát gọi là “xu hướng tính dục” của họ (8% đến 22%).

— Quản lý chặt chẽ các hành vi không lành mạnh hoặc gây nghiện của họ (4% đến 22%).

— Quản lý các hành vi phi đạo đức trong quá khứ, bao gồm sự không trung thực và quản lý tài chính sai trái (16% đến 17%).

Chưa đến một phần năm (11% đến 18%) chuyên gia sức khỏe tâm thần được khảo sát trong báo cáo đồng ý rằng các nhà đào tạo đã sử dụng “các chuẩn mực đào tạo hiệu quả, có thể đo lường được” bao gồm tất cả các giai đoạn đào tạo, và các đánh giá tâm lý ban đầu dành cho những người vào chủng viện được sử dụng để cá nhân hóa việc đào tạo cho những người muốn chịu chức.

Đánh giá tâm lý được thực hiện trong quá trình đào tạo

Giáo luật, bộ luật hành chính chính của Giáo hội Công giáo, không quy định cụ thể việc đánh giá tâm lý để gia nhập chủng viện và cho việc chịu chức, thay vào đó, dựa trên “sự phán đoán thận trọng” của giám mục giáo phận hoặc bề trên thượng cấp có thẩm quyền để phân định đức tin, kiến ​​thức, đạo đức, nhân đức và “các phẩm chất thể chất và tâm lý khác” phù hợp với chức linh mục của ứng viên.

Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng lạm dụng giáo sĩ ở Hoa Kỳ, các chủng viện đã bắt đầu tiến hành sàng lọc tâm lý[2] cho các ứng viên.

Năm 2008, Bộ Giáo dục Công giáo của Vatican (nay là một phần của Bộ Văn hóa và Giáo dục) đã ban hành “Hướng dẫn sử dụng tâm lý học trong việc tuyển sinh và đào tạo ứng viên linh mục”[3], lưu ý rằng, ngay từ năm 1974, Vatican đã nhận ra “trong rất nhiều trường hợp, những khiếm khuyết về tâm lý, đôi khi là bệnh lý, chỉ bộc lộ sau khi thụ phong linh mục” — và rằng “phát hiện ra những khiếm khuyết sớm hơn sẽ giúp tránh được nhiều trải nghiệm bi thảm.”

Ngay sau đó, Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã công bố các nghị định thư thực hiện hướng dẫn[4] năm 2008 của Vatican về việc sử dụng tâm lý học trong quá trình đào tạo, trong đó nhấn mạnh rằng việc tư vấn với các chuyên gia sức khỏe tâm thần phải chia sẻ “tầm nhìn Kitô giáo về con người, tính dục” và “ơn gọi linh mục và đời sống độc thân.”

Đa số đồng ý rằng các dịch vụ tâm lý nên đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo chủng sinh

Dữ liệu của Viện CARA-McGrath cho thấy nhìn chung, 85% giám mục Công giáo và 74% giám đốc ơn gọi của quốc gia (Hoa Kỳ) “đồng ý” hoặc “hoàn toàn đồng ý” rằng các dịch vụ tâm lý nên đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình đào tạo để đánh giá các ứng viên cho chức linh mục.

Tất cả các giám đốc và hầu hết (94%) các nhà đào tạo và linh hướng được khảo sát đều tán thành việc đánh giá tâm lý ban đầu là cần thiết, với 68% giám mục và 81% giám đốc ơn gọi coi các đánh giá này là một trong những công cụ hiệu quả nhất để phát hiện các vấn đề liên quan đến sự phù hợp của ứng viên.

Tuy nhiên, hơn một nửa số giám mục (56%) và giám đốc ơn gọi (57%) đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý rằng những đánh giá như vậy “dự đoán đầy đủ về khả năng hoạt động của một người sau này với tư cách là linh mục”, nghiên cứu cho biết.

Cuộc khảo sát cho thấy các chuyên gia sức khỏe tâm thần (65%) cho rằng “có nhiều khả năng hơn là các giám đốc (48%) và các nhà đào tạo/linh hướng (44%) đồng ý rằng … theo kinh nghiệm của họ, một số giáo phận ưu tiên con số ứng viên hơn chất lượng ứng viên khi đánh giá sự phù hợp của họ đối với các ứng viên cho Chức Thánh.” Các giám mục (22%) và giám đốc ơn gọi (33%) cho biết trong 10 năm qua, giáo phận của họ đã ít nhất một lần tiến chức một chủng sinh thông qua đào tạo hoặc chịu chức sau khi không đồng ý “với khuyến nghị tiêu cực của một chủng viện.”

Trong cả khảo sát và phỏng vấn tiếp theo đó, các chuyên gia sức khỏe tâm thần đã xác định bốn cách để sử dụng dịch vụ của họ tốt hơn: phản hồi cụ thể hơn từ các giáo phận và chủng viện (48%), đào tạo các nhà đào tạo về cách tối đa hóa việc đánh giá và tư vấn (23%), kiểm tra thường xuyên và mạnh mẽ hơn (23%), tích hợp tốt hơn với các nhóm đào tạo của chủng viện (16%).

Các chủ đề đào tạo ít có khả năng được đề cập đầy đủ

Sau khi hỏi những người trả lời về những lĩnh vực nào họ cảm thấy được đề cập đầy đủ trong các đánh giá, các nhà nghiên cứu của Học viện CARA-McGrath đã xác định một số chủ đề “ít có khả năng được đề cập đầy đủ nhất trong năm nhóm.”

Những điều này bao gồm:

— Rối loạn học tập nghiêm trọng hoặc khuyết tật kết hợp với thiếu sự hiểu biết trí tuệ.

— Mối quan hệ với bản thân hoặc người khác, bao gồm cả những mối quan hệ bị tổn hại nghiêm trọng, ngăn cản sự tương tác và lãnh đạo lành mạnh.

— Rối loạn phát triển lan tỏa có thể dẫn đến những hành vi không phù hợp với chức thánh.

— Khuynh hướng hoặc hành vi có thể báo trước hoạt động tình dục với, hoặc gây hại khác cho, trẻ vị thành niên.

Cuộc khảo sát cũng cho thấy hầu hết các chuyên gia sức khỏe tâm thần (94%) và giám đốc ơn gọi (70%) đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý rằng, họ đã trực tiếp hỏi các ứng viên về bất kỳ khuynh hướng đồng giới nào mà họ đã trải qua. Chưa đến một nửa số nhà đào tạo (46%), giám đốc (39%) và giám mục (36%) đã làm như vậy.

Phần lớn các giám mục (68%), các giám đốc (68%), các nhà đào tạo (63%) và các giám đốc ơn gọi (57%) cho biết họ thấy: “Hướng dẫn về tiêu chuẩn phân định ơn gọi đối với người có khuynh hướng đồng tính”[5] năm 2005 của Vatican là hữu ích.

Theo giáo huấn của Giáo hội, tài liệu phân biệt giữa các hành vi đồng tính luyến ái, gọi đó là tội trọng, và các khuynh hướng đồng tính luyến ái, “cũng là rối loạn khách quan và … thường tạo nên một thử thách” đối với những người trải qua chúng. Tài liệu nhấn mạnh rằng những người này “phải được đón nhận với sự tôn trọng và tế nhị”, tránh “mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công.”

Hướng dẫn khẳng định rằng những người “thực hành đồng tính luyến ái, thể hiện khuynh hướng đồng tính luyến ái ăn sâu hoặc ủng hộ cái gọi là ‘văn hóa đồng tính’” không thể được nhận vào chủng viện hoặc được chịu chức.

Tuy nhiên, tài liệu này cho biết những người trải qua “khuynh hướng đồng tính” như “biểu hiện của một vấn đề nhất thời” có thể được xem xét là ứng viên cho việc thụ phong, nếu “những khuynh hướng đó” đã “được khắc phục rõ ràng ít nhất ba năm trước khi chịu chức phó tế.” Tài liệu này đưa ra, như một ví dụ về khuynh hướng nhất thời, “một giai đoạn vị thành niên chưa được thay thế.”

Hơn một phần ba số chuyên gia sức khỏe tâm thần được khảo sát (36%) cho nghiên cứu của Học viện CARA-McGrath cho biết họ thấy hướng dẫn này hữu ích, lưu ý trong các cuộc phỏng vấn tiếp theo rằng họ thích “định nghĩa rõ hơn về các thuật ngữ ‘tạm thời’ và ‘ăn sâu.’”

Trong số 15 lựa chọn khả thi, bốn yếu tố được tất cả các nhóm khảo sát nêu ra là một lý do duy nhất để loại một người nam thanh niên khỏi việc chịu chức: nhu cầu tiếp tục dùng thuốc điều trị tâm thần “cho một tình trạng tâm lý nghiêm trọng hơn”; có sức hấp dẫn đồng giới “nổi trội”; có mối quan hệ đồng giới đáng kể trong quá khứ; và “các hành vi bán cưỡng chế theo chu kỳ” như lạm dụng rượu và cờ bạc.

Năm nhóm người trả lời khảo sát thường chỉ ra rằng, các đánh giá có thể được cải thiện theo nhiều cách, chẳng hạn như thực hiện “đánh giá sâu hơn về lịch sử và bối cảnh văn hóa” và “tập trung nhiều hơn vào các biện pháp đánh giá sự trưởng thành và phát triển.”

Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM

chuyển ngữ từ osvnews.com (26/09/2025).

[1] Đọc bản tiếng Anh tại: đây .

[2] Đọc thêm tại: đây.

[3] Đọc thêm tại: đây.

[4] Đọc thêm tại: đây.

[5] Đọc thêm tại: đây.