Bài giảng trong cuộc đời Thánh Vinh Sơn Phaolô và của các nhà truyền giáo Vinh Sơn

Đăng ngày: 26/09/2025
Danh mục: 2. CHIA SẺ

GIỚI THIỆU

Rao giảng trong Giáo hội là một sứ mệnh nối gót Chúa Giêsu, Đấng rao giảng Tin Mừng trong sứ vụ công khai của Ngài trên trần gian. Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo hội và trao phó cho Giáo hội tiếp tục sứ vụ truyền giáo, mang Tin Mừng đến với thế gian. Đây là một vai trò quan trọng của Giáo hội từ thuở ban đầu cho đến tận thế. Hoạt động này thể hiện sứ mệnh mà Giáo hội đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu và cam kết trung thành vì ơn cứu độ của Dân Chúa: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19). Cam kết này dành cho những người đã chịu phép rửa để trở thành Kitô hữu. Họ có sứ mệnh rao giảng Tin Mừng trong Giáo hội, tùy thuộc vào vai trò của họ là giáo sĩ, tu sĩ nam nữ hoặc giáo dân.

Nhiệm vụ này đã được Công đồng Vatican II quan tâm và sau đó, đặc biệt là qua Tông huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Giáo hoàng Phaolô VI, khi ngài mời gọi Giáo hội tham gia vào công cuộc truyền giáo, như ngài thúc dục: “Thực vậy, rao giảng Tin Mừng là ơn huệ và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là chân tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu để rao giảng Tin Mừng nghĩa là để rao giảng và dạy dỗ, là máng thông ơn thánh, giải hòa tội nhân với Thiên Chúa, tiếp tục hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh lễ, để tưởng niệm cái chết và phục sinh vinh hiển của Ngài.”[1] Các nhà truyền giáo sẽ trở thành kênh chuyển tải lời Chúa đến tận trái tim con người trong ba tình huống, như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đề cập trong Thông điệp Redemptoris Missio: “(1) rao giảng cho những người chưa bao giờ nghe Tin Mừng (ad gentes), (2) rao giảng cho những cộng đồng Kitô giáo nơi Giáo hội hiện diện và những người có lòng nhiệt thành trong đức tin, và (3) rao giảng cho những cộng đồng Kitô giáo có nguồn gốc lâu đời nhưng ‘đã mất đi cảm thức sống động về đức tin, hoặc thậm chí không còn coi mình là thành viên của Giáo hội nữa, và sống một cuộc sống xa rời Chúa Kitô và Tin Mừng của Người. Trong trường hợp này, điều cần thiết là một cuộc ‘truyền giáo mới’, một cuộc tái truyền giáo.’”[2]

Giáo hội thực hiện nhiệm vụ này thông qua các hoạt động truyền giáo, một trong những hoạt động này là việc giảng thuyết hay đưa ra các bài giảng để giúp mọi người hiểu Lời Chúa và sống sứ điệp Kinh Thánh. Bài giảng là những lời giảng dạy và giáo huấn chính thức trong bối cảnh phụng vụ của Giáo hội. Rõ ràng, bài giảng là một lời giải thích của Giáo hội về sự mặc khải qua Kinh Thánh: “Bài giảng không thể thiếu được trong việc cử hành mọi bí tích hoặc trong khi cử hành những nghi thức á phụng vụ tại các cộng đoàn tín hữu. Bài giảng luôn luôn là một cơ hội tốt nhất để truyền thông Lời Chúa.”[3] Giáo hội cần nhấn mạnh vị trí của bài giảng trong khía cạnh truyền giáo này, như Tông huấn Evangelii Nuntiandi đã chỉ ra: “Tuy nhiên chính lúc mà phụng vụ được công đồng canh tân, đã đề cao giá trị của ‘phụng vụ Lời Chúa’, người ta sẽ lầm lớn, nếu không coi bài giảng như một dụng cụ có giá trị và rất phù hợp cho việc loan báo Tin Mừng. Dĩ nhiên phải hiểu biết và lợi dụng những khả năng của bài giảng để bài giảng đạt được mọi hiệu qủa mục vụ.”[4]

Công cụ này vẫn còn sống động trong phụng vụ của Giáo hội trên toàn thế giới. Nó sẽ được thực hiện bằng nhiều ngôn ngữ và văn hóa trong bối cảnh thực tế. Nó giúp chúng ta thấy được tầm quan trọng của bài giảng.

Trong bối cảnh Vinh Sơn, khi Tu Hội Truyền Giáo và Gia Đình Vinh Sơn kỷ niệm 400 năm thành lập Tu hội Truyền Giáo. Sự kiện này được kêu gọi để làm sống lại đặc sủng của chúng ta, như Cha Thomas Marvic, CM, Bề Trên Tổng Quyền, đã thúc đẩy tinh thần này trong toàn thể Tu hội, sau khi kết thúc Tổng đại hội lần thứ 43 của Tu hội với chủ đề: “sinh động hóa căn tính của Tu Hội Truyền Giáo”, thách thức chúng ta phải diễn giải lại đặc sủng và sứ vụ của mỗi nhà truyền giáo Vinh Sơn trong thời đại chúng ta. Cuộc tìm kiếm này không diễn ra trong ‘chân không’, bởi vì chúng ta cũng nhận thức được những đặc tính và cám dỗ của nền văn hóa đang thịnh hành, đó là tính ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thất bại và chủ nghĩa hoài nghi, tiêu thụ thiếu phê phán và tham nhũng (EG 76-109), những điều này cũng có thể ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân của chúng ta và những người chúng ta phục vụ.”[5]

Sự kiện này mời gọi chúng ta quay trở lại cội nguồn của đặc sủng thời Thánh Vinh Sơn. Ngài đã làm gì để truyền giáo cho người nghèo? Có rất nhiều việc phải làm cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Một trong những hoạt động này là công cuộc đại phúc. Đó là một phương pháp truyền giáo cho người nghèo thông qua các bài giảng ở vùng nông thôn. Do đó, nó là một phần của công cuộc truyền giáo trong thời kỳ khai sinh của Tu hội. Bài giảng sẽ là một cách để làm sống lại đặc sủng của chúng ta và cách chúng ta sống Lời Chúa. Các nhà truyền giáo Vinh Sơn sẽ là những nhà truyền giáo vĩ đại trên bục giảng để công bố Tin Mừng cho thế giới.

Vì những lý do này, bài suy tư ngắn này sẽ phát triển một cấu trúc thảo luận từ tổng quát đến chi tiết trong bối cảnh của Giáo hội và Tu hội. Phương pháp này sẽ khai triển trên phương diện phê bình lịch sử và thực tiễn, cùng với khía cạnh mục vụ để mô tả chủ đề của chúng ta.

Để đạt được mục đích này, bài viết sẽ tái khám phá các tác phẩm của Thánh Vinh Sơn và giáo huấn của ngài về bài giảng hay cách rao giảng cho các anh em Vinh Sơn trong thời của ngài, đồng thời điều chỉnh cho phù hợp với thời đại hiện nay. Hy vọng rằng, khía cạnh này sẽ hữu ích cho các anh em Vinh Sơn, trong việc tập trung phương pháp truyền giáo qua bài giảng mà họ được mời gọi thực hiện trong cuộc sống hằng ngày.

Tuy nhiên, do giới hạn của bài suy tư ngắn, tôi sẽ không bàn luận về tất cả các khía cạnh của bài giảng trong Giáo hội và Gia đình Vinh Sơn. Tôi chỉ muốn có một cái nhìn tổng quan về cách Thánh Vinh Sơn sửa soạn bài giảng của mình và những ảnh hưởng của nó đối với sứ mệnh này. Từ đó, các anh em Vinh Sơn có thể học hỏi thêm từ ngài và từ sứ vụ mục vụ, để làm cho việc truyền giáo của mình hiệu quả hơn trong công cuộc rao giảng Tin Mừng cho người nghèo và cho toàn thể Dân Chúa.

1. Bài giảng trong đời sống Giáo hội

Bài giảng trong Giáo hội không chỉ là một hoạt động văn hóa trong thánh lễ hay phụng vụ, mà là phần chính của phụng vụ. Nó cũng không phải là một phần của các vị chủ tế hay đồng tế trong thánh lễ, mà là của cộng đoàn phụng vụ. Dù ai là người giảng, bài giảng vẫn là nơi đức tin gặp gỡ cuộc sống. Đó là sự kết nối giữa Lời Chúa và đời sống của dân Chúa. Làm sao họ có thể sống đức tin của mình qua giáo huấn của Kinh Thánh và huấn quyền của Giáo hội qua bài giảng? Nếu các vị giảng thuyết không tạo ra sự gặp gỡ giữa đức tin và cuộc sống, thì đó sẽ là một thảm họa cho người nghe, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết trong Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng (Evangelii Gaudium): “Tôi sẽ bàn một cách đặc biệt, và thậm chí hơi tỉ mỉ, về bài giảng và sự chuẩn bị bài giảng, vì có quá nhiều mối quan tâm đã được bày tỏ về tác vụ quan trọng này và chúng ta không thể làm ngơ. Bài giảng là viên đá thử để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của người mục tử với dân chúng. Chúng ta biết các tín hữu rất coi trọng bài giảng, và cả các tín hữu lẫn các thừa tác viên có chức thánh đều khổ sở vì các bài giảng: giáo dân khổ vì phải nghe các bài giảng, còn các giáo sĩ khổ vì phải giảng bài! Đây là trường hợp đáng buồn. !”[6] Vì thế, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắc nhở rằng, “bài giảng thực ra có thể là một trải nghiệm sâu đậm và vui sướng về Thần Khí, một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với lời Thiên Chúa, một nguồn mạch canh tân và tăng trưởng thường xuyên.”[7] Trong ý tưởng này, tôi muốn xem xét lại vai trò của bài giảng trong Giáo hội từ thời sơ khai cách phổ quát và sự phát triển của nó trong lịch sử Giáo hội và chủ đề mục vụ.

1.1 Rao Giảng Kerygma

1.1.1 Rao Giảng Kerygma như Lời Công Bố Đầu Tiên

Điều rất quan trọng là phải quay lại Sách Công Vụ Tông Đồ, để xem xét bối cảnh của các cộng đồng Kitô hữu đầu tiên sống đức tin và loan báo Tin Mừng. Nhiệm vụ này được giao cho các tông đồ và các tín hữu giáo dân, những người chưa được phong chức trong Hội Thánh. Họ đã trở thành một yếu tố quan trọng trong việc truyền bá Lời Chúa trong thế giới đó, khi các tông đồ bị phân tán: “Hồi ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một cơn ​bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri. Có mấy người sùng đạo chôn cất ông Tê-pha-nô và khóc thương ông thảm thiết. Còn ông Sao-lô thì cứ ​phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục. Ông Phi-líp-phê đến Sa-ma-ri. Vậy những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa” (Cv  8: 1-4). Bởi vì cuộc đàn áp xảy ra ở Giêrusalem, nó đã mang lại nhiều đau khổ cho những người theo đạo Thiên Chúa đầu tiên, do đó, đó là lý do họ mang phúc âm đến những nơi khác bên ngoài bức tường thành Giêrusalem.

Đây là một cách rao giảng lời Chúa ở những nơi khác trên Đất Thánh. “Sách Công vụ cho thấy các tông đồ và các Kitô hữu khác đã thực hiện một quy trình hai bước để tiếp cận thế giới cho Chúa Kitô. Nhìn chung, dường như họ đã rao giảng một thông điệp phúc âm cơ bản, với một dàn ý đơn giản tập trung vào cuộc đời, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu (xem Cv 17:1–3). Thông điệp phúc âm cốt lõi này, đôi khi được gọi là kerygma, hay “lời công bố”, không chứa đựng tất cả những gì Chúa Giêsu đã dạy các môn đồ, mà chỉ chứa đựng những điều cơ bản về sự cứu rỗi.”[8]

Điều này cho thấy kerygma là đức tin nền tảng của các cộng đồng Kitô giáo sơ khai trong bối cảnh bị bách hại. Nó chứa đựng những sự kiện chính trong cuộc đời của Chúa Giêsu, và chỉ cần như vậy là đủ để dân chúng tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa. Mọi người đều có thể học hỏi lẫn nhau và chia sẻ với người khác. Nó sẽ nhanh chóng mở ra cho cộng đồng một cách dễ dàng. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã giải thích kerygma trong Tông huấn Catechesi tradendae, về việc dạy giáo lý trong thời đại chúng ta như sau: “Như thế, nhờ việc dạy giáo lý mà kerygma về Tin Mừng (việc loan bao Tin Mừng lần đầu cách hăng say, mà nhờ đó một người một ngày nào đó bị tràn ngập và đi đến quyết định phó thác cho Đức Chúa Giêsu Kitô qua Đức Tin) được đào sâu từ từ, được phát triển bằng những kết quả ngấm ngầm, được cắt nghĩa bằng ngôn ngữ hữu lý, và dẫn đến việc sống đời Kitô hữu trong Hội Thánh và trong thế gian.”[9] 

Kerygma mang sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa đến với dân chúng. Khi dân chúng lắng nghe lời Chúa, Chúa Thánh Thần sẽ thúc đẩy lòng họ hoán cải và đức tin, như Đức Giáo hoàng Phanxicô thúc giục các giáo lý viên trung thành thực hiện sứ mệnh rao giảng kerygma:

“Trên môi miệng người dạy giáo lý, lời rao giảng tiên khởi phải không ngừng vang to: Đức Giêsu Kitô yêu bạn; Ngài hiến mạng sống mình để cứu bạn; và bây giờ Ngài đang sống bên cạnh bạn mỗi ngày để soi sáng, ban sức mạnh và giải thoát bạn. Lời rao giảng đầu tiên này được gọi là ‘đầu tiên’ không phải vì nó xuất hiện lúc ban đầu và rồi có thể bị lãng quên hay thay thế bằng một cái gì quan trọng hơn. Nó là đầu tiên theo nghĩa phẩm tính vì nó là lời rao giảng chính, lời rao giảng mà chúng ta phải nghe đi nghe lại bằng nhiều cách khác nhau, phải loan báo bằng cách này hay cách khác trong suốt tiến trình huấn giáo, ở mọi cấp độ và mọi thời điểm. Cũng vì lý do này, linh mục—như mọi thành viên khác của Hội Thánh—phải lớn lên trong sự ý thức rằng bản thân họ luôn luôn cần được loan báo Tin Mừng.”[10]

Vai trò này càng quan trọng hơn đối với các linh mục và phó tế, bởi vì sau khi được chịu chức thánh, họ trở thành những thừa tác viên của Lời Chúa. Do đó, họ phải rao giảng chân lý khó khăn của Lời Chúa để cứu rỗi Dân Chúa:

“Các linh mục và phó tế phải giảng những bài giảng truyền đạt những chân lý luân lý và tín lý khó khăn, theo cách cho phép những người nam nữ gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu, Đấng đã tạo dựng họ để sống với Ngài, Đấng đã làm người, đã chết và sống lại vì họ, Đấng kêu gọi họ, và Đấng ban sự sống vĩnh cửu với Ngài qua sự sám hối, đức tin và đời sống bí tích của Hội Thánh – tất cả đều ở trong và thông qua những chân lý khó khăn đó của đức tin. Điều này không dễ dàng, và đòi hỏi sự chuẩn bị thần học và cầu nguyện. Nhưng khi một người rao giảng và dạy đức tin Kitô giáo một cách sốt sắng, kết quả sẽ thể hiện sức mạnh nội tại của Phúc Âm.”[11]

1.1.2 Rao giảng kerygma trong bối cảnh dạy giáo lý

Trong bối cảnh này, mục đích của phương pháp này là tạo nên một cuộc gặp gỡ giữa dân Chúa và Chúa Giêsu Kitô một cách sâu sắc và cá nhân hơn, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh trong Tông huấn Evangelii Gaudium:

“Chúng ta không được nghĩ rằng trong huấn giáo, lời rao giảng đầu tiên (kerygma) nhường chỗ cho một sự đào luyện được cho là “vững chắc” hơn. Không có gì vững chắc, sâu xa, bảo đảm và khôn ngoan hơn lời rao giảng cơ bản này. Mọi sự đào luyện Kitô giáo đều bao gồm việc ngày càng đi sâu hơn vào kerygma, được phản ánh trong huấn giáo và không ngừng soi sáng huấn giáo, nhờ đó nó giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn tầm quan trọng của mỗi đề tài mà huấn giáo đề cập đến. Nó là sứ điệp có khả năng đáp lại khát vọng về sự vô biên luôn nằm trong trái tim mỗi người. Vị trí trung tâm của kerygma đòi phải nhấn mạnh những yếu tố cần nhất hôm nay: nó phải diễn tả tình thương cứu độ của Thiên Chúa, là cái đi trước mọi bổn phận luân lý hay tôn giáo của chúng ta; nó không được áp đặt sự thật nhưng kêu gọi tự do; nó phải được đánh dấu bằng niềm vui, sự khích lệ, sức sống và một sự cân bằng hài hoà để không giản lược việc rao giảng vào một ít giáo thuyết đôi khi mang tính triết học hơn là tính phúc âm. Tất cả điều này đòi hỏi người giảng thuyết phải có một số thái độ nuôi dưỡng sự mở lòng ra cho sứ điệp: dễ đến gần, sẵn sàng đối thoại, kiên nhẫn, nồng ấm, niềm nở, tóm lại là thái độ không phê phán.”[12]

Khía cạnh này thể hiện sự gặp gỡ giữa đức tin và đời sống trong bối cảnh bài giảng như một lời rao giảng kerygma của Giáo hội. Đây là một cơ hội để mọi người gặp gỡ Chúa Giêsu và đi sâu hơn vào việc tìm kiếm Ngài như một chủ thể đức tin. “Trung tâm của mọi tiến trình dạy giáo lý là cuộc gặp gỡ sống động với Chúa Kitô.”[13]

Đây là một khía cạnh khác của bài giảng trong Giáo hội. Đây là một cách để mở ra đức tin cho những người tin vào Thiên Chúa và những người muốn trở thành Kitô hữu. Điều này cho thấy tầm quan trọng của bài giảng trong đời sống Kitô hữu.

1.2 Yếu tính của bài giảng phụng vụ

Đặc biệt hơn trong bối cảnh phụng vụ, bài giảng là một phần của phụng vụ Lời Chúa. Phần này là phần giải thích Kinh Thánh thông qua các bài đọc hằng ngày. Có thể mô tả như sau: “Sau đó, người giảng thuyết có một nhiệm vụ to lớn: nói từ Kinh Thánh… cho cộng đoàn đang tụ họp sao cho những người tụ họp có thể thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý, và rồi ra đi yêu mến và phụng sự Người.”[14] Trong bối cảnh phụng vụ này, bài giảng của người giảng thuyết sẽ đưa mọi người đến gần Chúa hơn, giúp họ nhận ra con đường Chúa muốn họ đi, xây dựng tình bạn với Chúa, khám phá lòng thương xót, sự tái sinh và biến đổi của Chúa. Bài giảng có phần giải thích để giúp mọi người hiểu được sự biểu lộ qua hoàn cảnh của các nhân vật trong Kinh Thánh. Người giảng thuyết sẽ giúp người nghe đặt niềm tin vào các nhân vật trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, khía cạnh này cần được giải thích trong bối cảnh hiện diện.

Một bài giảng hay có thể mang lại cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, như Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng đã tuyên bố: “Việc trình bày các sách Phúc Âm cần được thực hiện sao cho khơi gợi một cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng cung cấp chìa khóa cho toàn bộ mặc khải Kinh Thánh và truyền đạt lời mời gọi của Thiên Chúa, mời gọi mỗi người đáp lại.”[15]

Bài giảng cũng là sự chuẩn bị cho bàn tiệc Thánh Thể, nơi mọi người có một cuộc gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa hằng sống, Đấng nói với họ qua Kinh Thánh. Bài giảng dẫn đến sự hiệp thông với lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa về những hồng ân là Mình và Máu Người để nuôi dưỡng linh hồn. Bài giảng cũng giúp các tín hữu tìm thấy Thiên Chúa trong cuộc sống của họ để họ có thể sống gần gũi hơn với Ngài. Khía cạnh này rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu, như Đức Giáo hoàng Benedict XVI đã dạy: “Trở thành Kitô hữu không phải là kết quả của chọn lựa đạo đức hay một lý tưởng cao đẹp, nhưng là trải qua một biến cố, gặp gỡ một nhân vật có khả năng mở đời mình ra cho một chân trời mới và một hướng sống rõ rệt.”[16] Vì vậy, nếu bài giảng được chuẩn bị tốt, nó sẽ giúp cho cuộc gặp gỡ đích thực giữa dân Chúa với Chúa Giêsu một cách cá nhân.

Điều này có nghĩa là bài giảng mở ra một cách nhìn mới về cuộc sống của họ: “Bài giảng không hẳn là về Kinh Thánh, mà là từ và qua Kinh Thánh”, mang đến cho người nghe “một cách diễn giải Kinh Thánh về sự tồn tại của con người”. Mục tiêu không hẳn là một bài học, mà là một lăng kính, một cách nhìn mới về cuộc sống và thế giới của người nghe, một chân trời tầm nhìn tràn đầy những khả năng mới trong ân sủng của mối quan hệ với Thiên Chúa. Nói cách khác, các mầu nhiệm Kitô giáo được mở ra theo cách soi sáng cuộc sống của chúng ta. Truyền thống giáo lý của chúng ta soi sáng và dẫn dắt việc rao giảng, và thúc đẩy chúng ta đi sâu hơn, nhưng không hẳn là một điểm đến mà là một điểm khởi đầu cho nhiệm vụ diễn giải cuộc sống của chúng ta.”[17]

Trong phần này, yếu tố cốt lõi của bài giảng phụng vụ có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra một cuộc gặp gỡ mới với Chúa Giêsu trong thánh lễ hoặc các nghi lễ của Giáo hội. Cần tập trung vào hiệu ứng này trong đời sống đức tin Kitô giáo hàng ngày.

1.3 Bối cảnh Thần học của bài giảng phụng vụ

Trước khi đi sâu hơn vào chủ đề này, cần hiểu thuật ngữ phụng vụ trong bối cảnh thờ phượng Chúa. Đó là việc thờ phượng chính thức và công khai của Giáo hội. Nó bao gồm việc thờ phượng và các nghi lễ dâng lên Chúa trong một bối cảnh đặc biệt tùy thuộc vào địa điểm diễn ra. Về điểm này, Thông điệp Mediator Dei của Đức Giáo hoàng Piô XII tuyên bố rằng: “Phụng vụ Thánh do đó là sự thờ phượng công khai mà Đấng Cứu Chuộc chúng ta, với tư cách là Đầu của Giáo hội, dâng lên Chúa Cha, cũng như sự thờ phượng mà cộng đồng tín hữu dâng lên Đấng sáng lập, và qua Ngài dâng lên Chúa Cha trên trời. Tóm lại, đó là sự thờ phượng được thực hiện bởi Nhiệm thể Chúa Kitô, với toàn thể Đầu và các chi thể của nó.”[18]  Do đó, điều này nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cử hành phụng vụ như trong hiến chế về phụng vụ thánh đã nêu rõ: “Chúng ta phải lưu ý ở đây rằng Chúa Kitô luôn hiện diện trong Giáo hội, đặc biệt là trong các cử hành phụng vụ của Giáo hội. Do đó, Người hiện diện trong lời của Người vì chính Người nói khi Kinh Thánh được đọc và được giảng cho chúng ta trong các cử hành phụng vụ.”[19]  Chính trong điều này, bài giảng cho thấy ý nghĩa của Lời Chúa. Thuật ngữ ‘bài giảng’ có nhiều định nghĩa khác nhau. Nó có thể là một giáo lý, một cách giải thích Kinh Thánh, một chỉ dẫn luân lý… hoặc một số người Tin Lành gọi đó là bài giảng đạo. “Một bài giảng phải có những đặc điểm sau: mang tính Kinh Thánh, phụng vụ, kerygmatic và phải gần gũi.”[20]

Bản chất của bài giảng phụng vụ “không phải là một cuộc trò chuyện hay thuyết phục, mà là một cuộc thảo luận giống như cuộc thảo luận mà hai môn đệ đã tham gia trên đường đến Emmaus (x. Lc 24:14). Đó sẽ là một cuộc trò chuyện trong cộng đồng thông qua lời Chúa. “Theo bản chất, mỗi bài giảng trước tiên là công bố Lời Chúa, không phải là sự khó chịu hay niềm tin của chúng ta và sau đó là rao giảng về các dấu chỉ của Chúa trong cuộc sống của mọi người. Người giảng không bao giờ nên là trọng tâm của bài giảng; người giảng nên tránh các tham chiếu cá nhân, ẩn dụ hỗn tạp và các liên tưởng tiêu cực. Thay vào đó, bài giảng phải mạch lạc và ngắn gọn.”[21] Từ điểm này, chúng ta hãy xem xét lại việc thực hành bài giảng trong Giáo hội, bao gồm cả Cựu Ước và Tân Ước.

1.3.1 Trong Cựu Ước

Từ thời Cựu Ước, việc rao giảng được thể hiện qua việc cử hành phụng vụ và các nghi thức do các tư tế hoặc kỳ mục của cộng đồng dân Israel chủ trì. Do đó, truyền thống giải thích các bài đọc Kinh Thánh được tìm thấy trong các hội đường Do Thái. Đó là một truyền thống diễn giải và áp dụng thông điệp Kinh Thánh vào hoàn cảnh đương thời, giống như các yếu tố khác của phụng vụ Kitô giáo. Hình thức giảng đạo đặc biệt này, vốn đã chứng kiến sự phát triển đáng kinh ngạc trong thời đại các giáo phụ, bắt nguồn từ Do Thái giáo, đặc biệt là trong việc thờ phượng tại các hội đường Do Thái vào thời Chúa Giêsu.[22]

Trong bối cảnh này, bài giảng diễn ra đồng thời với bốn hoạt động trong suốt lễ kỷ niệm: bao gồm việc đọc Kinh Thánh, đặc biệt là Tohra và các sách ngôn sứ, và kết thúc bằng lời cầu nguyện. Bài giảng là một phần của các bài đọc.

Khía cạnh này nhắc nhở chúng ta về vai trò của hội đường Do Thái, nơi mọi người tụ họp lại để lắng nghe lời Chúa. Họ cảm thấy vui mừng khi được lắng nghe lời dạy của Chúa, lòng họ xúc động khi lời Chúa được cất lên giữa đám đông. Chúng ta thấy điều này trong Phúc âm Luca chương 4, khi Chúa Giêsu đến hội đường để giải thích lời Chúa: “Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh…Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 18- 25).

1.3.2 Trong Tân Ước

Trong Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Verbum Domini, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI khẳng định rằng “Lời Chúa là nguồn mạch canh tân không ngừng” trong Giáo hội và là sức mạnh, “đồng thời tôi ước mong Lời Chúa luôn ngày càng trở nên trung tâm điểm của mọi hoạt động trong Giáo Hội.”[23] Bối cảnh này cho thấy sự nhập thể của Chúa Giêsu, như trong Verbum Domini, Tân Ước tương ứng với suy tư về Ngôi Lời sáng tạo của Thiên Chúa trong Sáng Thế Ký được tìm thấy trong Lời tựa của Phúc Âm Gioan. “Thực ra, Ngôi Lời của Thiên Chúa, nhờ Người “vạn vật được tạo thành” (Ga 1,3), và là Đấng “đã trở nên người phàm” (Ga 1,14), vẫn là chính Ngôi Lời hiện hữu từ “lúc khởi đầu” (Ga 1,1).[24] Chúa Giêsu trở thành người rao giảng trong ngôi vị là Con Thiên Chúa.

Lời tường thuật tuyệt đẹp của Luca về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Kitô Phục Sinh với hai môn đệ trên đường Emmaus (24:13-35) cũng cung cấp những hiểu biết sâu sắc về sứ vụ giảng dạy phụng vụ. Trong câu chuyện này của Phúc Âm Luca, hai môn đệ đã vui mừng sau cuộc gặp gỡ với người lạ, và cuối cùng, họ nhận ra Chúa Giêsu chính là đấng phục sinh. Lòng họ bừng cháy bởi Lời Chúa. Đây là một ví dụ tuyệt vời về những gì diễn ra trong mỗi cử hành phụng vụ, nơi một bài giảng được chuẩn bị kỹ lưỡng và được trình bày trước khi cử hành các bí tích.

Có rất nhiều sự kiện thể hiện khía cạnh này trong Tân Ước. Nhưng chúng ta có thể chỉ ra một số sự kiện này để thanh tẩy tâm trí họ thông qua các câu chuyện Phúc Âm và Tân Ước. Tôi nghĩ điểm này đủ để tiếp tục lễ kỷ niệm nhằm cải thiện đời sống của dân Chúa: “Chúng ta hãy lặp lại một lần nữa: chúng ta cần những hy vọng lớn nhỏ để sống ngày qua ngày. Nhưng những hy vọng này không đủ nếu thiếu một hy vọng cao cả, một thứ hy vọng phải vượt lên trên mọi thứ khác. Hy vọng cao cả này chỉ có thể là Thiên Chúa, Đấng bao gồm toàn thể thực tại và là Đấng ban phát cho chúng ta cái mà chúng ta, tự mình, không thể đạt được.”[25]

Do đó, bài giảng trong Tân Ước tập trung vào hoạt động truyền giáo khi người tín hữu trở về với gia đình. Bài giảng chạm đến trái tim mọi người và mang đến một niềm hy vọng mới. Bài giảng là trải nghiệm của mọi người dưới ánh sáng Phúc Âm hay mầu nhiệm niềm vui Vượt Qua. Bài giảng cần tập trung vào cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.

1.4 Bài giảng trong Giáo huấn của Giáo hội

Giáo hội sau Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh đến việc cải cách phụng vụ. Nhiều thay đổi đã diễn ra trong việc cử hành phụng vụ, chẳng hạn như ngôn ngữ được sử dụng trong thánh lễ, và văn bản Kinh Thánh bằng tiếng địa phương… Để thực hiện những thay đổi này, Giáo hội cũng tập trung vào cấu trúc của các nghi lễ thánh lễ. Một trong số đó là bài giảng giải thích Lời Chúa cho những người tham dự thánh lễ.

1.4.1 Bài giảng trong thế giới ngày nay

Giáo hội không tách biệt khỏi thế gian, nhưng đồng hành với con người trên thế gian này để mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu. Giáo hội nói với thế giới qua giáo huấn của mình, một trong số đó là bài giảng. Qua đó, Giáo hội muốn truyền đạt cho những người lắng nghe lời Chúa một sứ điệp có thể dẫn họ đến chân lý của Thiên Chúa. Trong nhiều văn kiện chính thức của Giáo hội, người ta có thể thấy Giáo hội quan tâm đến các thừa tác viên của Giáo hội về việc chuẩn bị một bài giảng tốt đẹp để nuôi dưỡng tâm hồn con người.

Trong Giáo luật số 767, Giáo hội đã thiết lập một quy tắc về việc giảng lễ tại đoạn 767 §1:[26]

(1) Trong những hình thức giảng thuyết, nổi bất nhất là bài giảng giải thánh lễ vì là phần chính của phụng vụ và dành riêng cho Linh Mục hay Phó Tế. Trong bài giảng ấy, phải làm sao để suốt một năm phụng vụ có thể trình bày các mầu nhiệm đức Tin và khuôn khổ đời sống Kitô giáo dựa vào bản văn Thánh Kinh.

(2) Trong mọi thánh lễ ngày Chủ Nhật và ngày lễ buộc, khi có dân chúng họp lại, thì buộc phải giảng lễ, trừ khi có lý do quan trọng mới được bỏ qua.

(3) Trong các thánh lễ trong tuần, nhất là trong mùa Vọng và mùa chay, hoặc khi có lễ lớn hay tang chế, khuyến khích nên giảng lễ khi có số đông dân chúng tham dự.

(4) Cha Sở hay Linh Mục quản đốc nhà thờ phải lo liệu để những quy luật trên được tuân giữ chu đáo.

Điều này có nghĩa là bài giảng lễ là niềm an ủi cho tâm hồn giáo dân trong bất kỳ dịp nào trong cuộc sống và mùa phụng vụ. Những dịp này của cuộc sống sẽ được nhìn nhận qua lăng kính của Lời Chúa. Lời Chúa sẽ được đọc trong những dấu chỉ của thời đại và khích lệ họ sống đức tin của mình trong những dịp đó.

Vì vai trò quan trọng của bài giảng trong cử hành Thánh Thể, người giảng thuyết hay người nghe cần có một tấm lòng chân thành để có thể lắng nghe Lời Chúa một cách rõ ràng: “Một lưu ý cuối cùng về bài giảng, vừa từ góc nhìn của người công bố bài giảng vừa từ góc nhìn của người nghe. Bài giảng đòi hỏi sự khiêm nhường trong tâm hồn, một thái độ có thể nhận ra rằng Lời Chúa luôn vượt quá khả năng của chúng ta, và như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, chúng ta không phải là chủ nhân hay người sở hữu Lời Chúa, nhưng là người bảo vệ, người loan báo và người phục vụ Lời Chúa.”[27]

Qua Công đồng Vatican II, Giáo hội kêu gọi thế giới khám phá mầu nhiệm cuộc sống của họ qua Kinh Thánh hằng ngày. Họ có thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa hoặc ý muốn của Người qua lời Người muốn nói với họ qua Lời Chúa: “Nội dung bài giảng phải được kín múc chủ yếu từ nguồn Thánh Kinh và Phụng vụ, trở nên lời rao truyền các việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi hay trong mầu nhiệm Chúa Kitô, luôn được hiện tại hóa và tác động trong chúng ta, nhất là khi cử hành Phụng vụ.”[28]

Đặc biệt hơn, Giáo hội dạy cách chia sẻ Lời Chúa với cộng đoàn để giúp những người tham dự hiểu được các mầu nhiệm mà họ đang cử hành trong ngày hôm đó. “Bài giảng là thành phần của Phụng vụ và rất được khuyến khích, vì cần thiết để nuôi dưỡng đời sống Kitô giáo. Phải diễn giải hoặc một khía cạnh của các bài đọc Thánh Kinh, hoặc các bản văn nào khác thuộc phần chung hay phần riêng của Thánh lễ ngày đó, có liên hệ tới mầu nhiệm được kính nhớ, hay nhu cầu đặc biệt của thính giả.”[29]

Theo Robert P. Waznak, “mỗi người giảng đều đại diện cho cộng đoàn của mình, nói lên những lo lắng của mình, bằng cách gọi tên những con quỷ của mình và do đó giúp cộng đoàn hiểu và chế ngự được sự dữ đang hành hạ mình. Người giảng đại diện cho Chúa bằng cách trao cho cộng đoàn một lời khác, một lời chữa lành và tha thứ, một lời đón nhận tình yêu.”[30]

Với sự hướng dẫn chi tiết, Giáo hội luôn muốn chuẩn bị một bàn tiệc Lời Chúa trong sự tốt lành, để mang ánh sáng chân lý đến soi sáng cuộc sống của mọi người. Họ cần được nuôi dưỡng và chăm sóc bởi Lời Chúa trong đời sống thiêng liêng. Nếu không có nước hoặc phân bón, cây có thể trở thành cây mà không cần nước hay phân bón, cây sẽ bám rễ sâu vào đất.

1.4.2 Bài giảng với những vấn đề gặp phải

Trong cử hành phụng vụ, bài giảng là một trong những phần gây nhiều lo lắng cho giáo dân. Có người cho rằng bài giảng dài dòng, có người cho rằng bài giảng nhàm chán, và có người lại cho rằng bài giảng rẻ tiền. Có nhiều lý do khiến giáo dân phàn nàn về bài giảng. Vấn đề cơ bản của bài giảng phụng vụ nằm ở khâu chuẩn bị và trình bày. Vấn đề này liên quan đến mục đích của bài giảng và bắt nguồn sâu xa từ vấn đề giải thích. “Một bài giảng phải có khả năng nắm bắt từ ngữ theo nghĩa gốc của nó và chuyển dịch nó sang những cách diễn đạt luôn mới mẻ, can đảm sử dụng nó để đối mặt với những khía cạnh kịch tính nhất của nền văn hóa và cuộc khủng hoảng không ngừng thay đổi mà con người đang phải đối mặt ngày nay.”[31]

Thời lượng và chất lượng của bài giảng rất quan trọng để có một bài giảng hay. Việc chuẩn bị đầy đủ là một trong những phần quan trọng của bài giảng. Không phải vì thời gian, người giảng sẽ làm cho bài giảng của mình trở nên vô hình, thay vào đó, họ cần chuẩn bị bài giảng kỹ lưỡng cho cộng đoàn của mình. Nhưng dù bài giảng dài hay ngắn, người giảng cũng cần bám sát nội dung Kinh Thánh. Họ không nên vượt quá những bài đọc này mà cần dựa vào đó để diễn giải công việc của Chúa và lắng nghe tiếng Chúa trong sâu thẳm tâm hồn mình.

Một số nhà giảng thuyết chiếm chỗ bục giảng để trở thành một sân khấu chính trị hoặc sân khấu nghệ thuật. Họ chiếm bục giảng bằng những câu chuyện thêu dệt, hoặc thậm chí là những lập luận chính trị. Một số người không biết cách diễn thuyết nhiều hơn, họ lợi dụng thời gian đó để thể hiện cuộc sống của mình hoặc của người khác. Do đó, người giảng thuyết phải trung thành với giáo huấn của Hội Thánh liên quan đến bài giảng. Họ nên tuân theo các hướng dẫn và sử dụng sự khôn ngoan của mình cho bài giảng.

2. Bài giảng là một cách truyền giáo

Truyền giáo là một tiến trình trong sứ mệnh của Giáo hội. Điều này bắt đầu từ cuộc đời của Chúa Giêsu với lời cam kết của Ngài trước khi lên trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,15). Các môn đệ của Chúa Giêsu đã vâng theo lệnh truyền này và ra đi khắp thế gian để loan báo Tin Mừng cho muôn loài. Thậm chí, họ đã phải trả giá cho điều này bằng cuộc đời tử đạo của mình. Hãy nhìn vào tấm gương của các tông đồ, chúng ta là những người theo đạo Thiên Chúa đã chịu phép rửa tội để trở thành tông đồ của Chúa Giêsu và tiếp tục những gì các tông đồ đã làm.

Giáo hội ý thức được nhiệm vụ loan báo Tin Mừng này. Giáo hội hiến mình cho thế giới bằng cách cùng với các tín hữu thực hiện nhiệm vụ này để làm chứng cho Nước Thiên Chúa. Giáo hội sử dụng bài giảng như một phương tiện để truyền giáo cho mọi người, đặc biệt là người nghèo. Bài giảng là một cuộc đối thoại trong đức tin dựa trên Lời Chúa. Bởi vì nó là một phần tiếp nối của phụng vụ Lời Chúa. Như chúng ta đã định nghĩa về truyền giáo: “Truyền giáo diễn ra khi Lời Chúa Giêsu chạm đến trái tim và tâm trí con người. Không cần bất kỳ thủ đoạn hay thao túng nào, truyền giáo chỉ có thể diễn ra khi con người tự do đón nhận Tin Mừng, như một “Tin Mừng” đúng nghĩa, nhờ sức mạnh của sứ điệp Tin Mừng và ân sủng của Thiên Chúa đi kèm.”[32]

Bài giảng là một cách để nói chuyện với mọi người bằng Lời Chúa. Nó cũng là một sự khích lệ để mọi người đáp lại tiếng gọi của Chúa một cách tự do bằng cả tấm lòng và ý chí. Có rất nhiều cuộc đời được biến đổi sau khi được nghe chia sẻ Lời Chúa. Họ nhận ra sứ điệp mà người giảng giải giải thích cho họ và sau đó họ hiểu được điều Thiên Chúa muốn họ sống. Hiệu quả của bài giảng rất mạnh mẽ trong đời sống nội tâm của mọi người nếu người giảng thuyết đưa ra cách giảng đúng đắn: “Hoa trái của công cuộc truyền giáo là cuộc sống thay đổi và thế giới thay đổi—sự thánh thiện và công lý, thiêng liêng và hòa bình.”[33]

Về điểm này, Thánh Vinh Sơn Phaolô vào ngày 6 tháng 12 năm 1658, đã tuyên bố rõ ràng rằng việc truyền giáo cho người nghèo, bao gồm cả sự hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần:

“Chẳng phải đó là điều Chúa chúng ta và nhiều vị thánh vĩ đại đã làm sao, và các ngài không chỉ giới thiệu người nghèo cho người khác mà còn an ủi, vỗ về và chữa lành họ sao? Chẳng phải những người nghèo là những chi thể đau khổ của Chúa chúng ta sao? Họ chẳng phải là anh chị em của chúng ta sao? … Vậy nên, nếu có ai trong chúng ta nghĩ rằng họ… truyền giáo cho người nghèo chứ không phải để xoa dịu nỗi đau khổ của họ, chăm sóc những nhu cầu tinh thần chứ không phải những nhu cầu vật chất của họ, tôi xin trả lời rằng chúng ta phải giúp đỡ họ và được họ hỗ trợ bằng mọi cách, bởi chính chúng ta và bởi những người khác. …. Làm như vậy là rao giảng Phúc Âm bằng lời nói và việc làm, và đó là cách hoàn hảo nhất; đó cũng là điều Chúa chúng ta đã làm, và là điều những người đại diện cho Ngài trên trần gian nên làm.”[34]

Thánh Vinh Sơn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc truyền giáo cho người nghèo, cả về mặt tinh thần lẫn thể xác. Ngài không chỉ quan tâm đến vật chất mà còn cả tinh thần. Bài giảng là cách đầu tiên để truyền giáo cho mọi người, như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói trong Tông huấn Redemptoris Missio: “Có ba mục tiêu của sứ mệnh hay công cuộc truyền giáo này: Công bố Tin Mừng cho mọi người; Giúp mang lại sự hoán cải cho những người đã đón nhận Tin Mừng nhưng chỉ sống trên danh nghĩa; Làm sâu sắc thêm Tin Mừng trong đời sống của các tín hữu.” Do đó, việc chuẩn bị cho hoạt động này là điều thiết yếu đối với các nhà giảng thuyết. Họ cần có sự chuẩn bị gần và xa cho bài giảng. Tông huấn Evangelii Gaudium nhấn mạnh: “Một số mục tử lý luận rằng một sự chuẩn bị như thế là không khả thi, vì khối lượng công việc họ phải làm quá nhiều; tuy nhiên, tôi muốn xin rằng mỗi tuần phải dành một phần thời gian cá nhân và cộng đoàn đủ cho công việc này, dù có phải bớt xén thời gian của các công việc quan trọng khác.”[35]

3. Bài giảng trong cuộc đời của Thánh Vinh Sơn Phaolô

Chúng ta phải ngưỡng mộ rằng Thánh Vinh Sơn đã để lại cho chúng ta hàng ngàn lá thư, nhưng đối với bài giảng của ngài, dường như không có gì cả. Có nhiều lý do có thể giải thích điều này, chẳng hạn, Thánh Vinh Sơn quá bận rộn với công việc bác ái đến nỗi ngài không có thời gian để viết bài giảng, hoặc Thánh Vinh Sơn không muốn bài giảng của mình trở thành mẫu mực cho thế hệ sau. Đây là những giả định. Do đó, việc nhìn lại thời của Thánh Vinh Sơn để khám phá bài giảng của ngài là một điều thú vị, mà chúng ta được kêu gọi thực hiện ngay bây giờ, trong thời đại này.

3.1 Bài giảng trong Đại phúc Vinh Sơn

Thánh Vinh Sơn Phaolô đã trải nghiệm bài giảng đầu tiên được giảng cho người nghèo vào năm 1617, và nhân dịp đó, đặc sủng Vinh Sơn đã được thiết lập và lan rộng ra toàn thế giới. Đây là một trải nghiệm đầy cảm hứng và tuyệt vời được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

3.1.1 Kinh nghiệm tại Folleville

Thánh Vinh Sơn đã nhận được một nhiệm vụ mục vụ mang lại cho ngài một kinh nghiệm thiêng liêng về những gì Chúa đã làm cho ngài và cho Tu hội Truyền Giáo tương lai. Nhân chứng quan trọng đã từng sống với Thánh Vinh Sơn có thể cho chúng ta thấy những hiệu quả mục vụ của những lời dạy của thánh Vinh Sơn, một trong những giáo huấn này là bài giảng của ngài, như thầy Ducourneau, thư ký của Thánh Vinh Sơn, đã viết những lời sau đây trong ‘Bản ghi nhớ về các bài nói chuyện của Thánh Vinh sơn’: “Nếu những công việc ngài đã làm là công việc của Chúa, như chúng có vẻ là vậy, thì Chúa hẳn đã ban cho ngài Thánh Linh của Ngài để thực hiện và duy trì chúng: do đó, lời khuyên và giáo lý được sử dụng cho mục đích đó phải được coi là thiêng liêng và được thu thập như manna từ trời, có nhiều sở thích khác nhau đã thu hút rất nhiều người khác nhau thuộc cả hai giới và mọi tầng lớp, được liên kết theo nhiều cách khác nhau cho rất nhiều việc tốt khác nhau không được thực hiện và duy trì nhờ sự hướng dẫn của ngài.[36]

Để hiểu rõ hơn về sự kiện này trong lịch sử của Tu Hội Truyền Giáo, chúng ta cần đọc lại khoảnh khắc sống động, khi Thánh Vinh Sơn giảng bài giảng đại phúc đầu tiên cho người nghèo ở Folleville. Từ sự kiện này, Thánh Vinh Sơn được Chúa Thánh Thần dẫn dắt để có một hành trình mới trong đời sống thiêng liêng của mình, là phục vụ Thiên Chúa và người nghèo. Điều này thật đáng chú ý trong lịch sử của Tu hội. Nó vẫn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ anh em Vinh Sơn noi theo và sống theo. Như Antonio Orcajo, CM đã mô tả trong bài viết của mình về sự kiện này: kinh  nghiệm đầu tiên liên quan đến bài giảng mà Thánh Vinh Sơn, theo sự nài nỉ của bà Madame de Gondi, Marguerite de Silly, vợ của Philippe Emmanuel de Gondi, đã giảng tại Folleville. Chính thánh Vinh Sơn đã giải thích những gì đã xảy ra vào ngày 25 tháng 1 năm 1617 một cách không thể nào quên:[37]

“Chuyện đó xảy ra vào tháng 1 năm 1617, và vào ngày 25, lễ Thánh Phaolô tông đồ trở lại, người phụ nữ ấy đã yêu cầu tôi giảng một bài giảng tại nhà thờ Folleville để kêu gọi mọi người xưng tội chung, và tôi đã làm như vậy, đồng thời chỉ ra cho họ tầm quan trọng và lợi ích của việc xưng tội. Sau đó, tôi hướng dẫn họ cách xưng tội đúng đắn, và Chúa đã rất trân trọng lòng tin và đức tin tốt lành của người phụ nữ ấy – vì vô số tội và sự hệ lụy của chúng nơi tôi sẽ cản trở sự thành công của hành động này – nên Ngài đã chúc lành cho những gì tôi nói, và những người tốt bụng ấy đã được Chúa cảm động đến nỗi tất cả họ đều đến để xưng tội chung… Đó là bài giảng đại phúc đầu tiên của Tu Hội Truyền Giáo và là thành công mà Chúa đã ban cho Tu hội vào ngày lễ Thánh Phaolô tông đồ trở lại, và Ngài chắc chắn đã có một kế hoạch trong đầu vào ngày hôm đó.”[38]

Thật vậy, thông điệp trong bài giảng của Thánh Vinh Sơn đã chạm đến trái tim của những người nghèo và khơi dậy lòng ăn năn trong sâu thẳm tâm hồn đám đông. Họ cảm nhận được lời Chúa chạm đến tâm hồn họ và nỗ lực của họ để trở về với Chúa. Nó chịu ảnh hưởng bởi lời của Thánh Vinh Sơn Phaolô. Bài giảng của ngài đã mang đến một cuộc gặp gỡ đích thực giữa Thiên Chúa và con người, khiến họ suy ngẫm về cuộc sống của mình dựa trên những lời dạy của Kinh Thánh.

Từ một khía cạnh khác, chúng ta cần một lời bình luận chính xác về sự kiện này trong lịch sử đặc sủng của Tu Hội Truyền Giáo. May mắn thay, chúng ta có tài liệu do các nhà sử học thuộc Tu hội cung cấp. Ở đây, chúng ta hãy tham khảo nhận định sâu sắc của sử gia Vinh Sơn, José María Román: Đó là một sự mặc khải. Vinh Sơn quyết định đây phải là sứ mệnh của mình; đây là điều Chúa kêu gọi ngài, ngài phải mang Phúc Âm đến với những người dân quê nghèo khó này. Thánh Vinh Sơn đã chưa từng thấy bất kỳ hội dòng nào như thế. Có lẽ ý tưởng thành lập một hội dòng chưa bao giờ xuất hiện trong đầu ngài. Ngài chỉ giảng một bài giảng, “bài giảng đầu tiên của Tu Hội Truyền Giáo”. Tám năm sau, ngài mới thành lập Tu Hội Truyền Giáo, vậy mà suốt cuộc đời, ngài đã cho các thừa sai của mình mừng ngày 25 tháng 1 là ngày sinh nhật của Tu hội.[39]

Đó là một bài giảng hùng hồn của Thánh Vinh Sơn. Nó giống như một con sóng trên biển, lan rộng hơn, lớn hơn từ trung tâm ra đến ranh giới và cuối cùng chạm đến các vật thể. Thánh Vinh Sơn ngạc nhiên trước điều này, vì ngài nghĩ rằng đó chỉ là một bài giảng đơn giản như những bài giảng khác do ngài hoặc những người khác giảng trong phụng vụ. Ngài được Chúa Thánh Thần soi sáng để làm những việc như vậy bằng tài năng của mình, phục vụ người nghèo và người bị bỏ rơi.

3.1.2 Kinh nghiệm tại Châtillon

Sau kinh nghiệm đầu tiên, Thánh Vinh Sơn tiếp tục theo đuổi con đường mà Chúa đã khai mở và mời gọi ngài bước đi. Ngài là một môn đệ ngoan ngoãn của Chúa Thánh Thần, vâng phục và làm theo những gì Chúa đã phán dạy qua những biến cố xảy ra trong cuộc đời.

Kinh nghiệm thứ hai liên quan đến hoạt động mục vụ của Thánh Vinh Sơn tại Châtillon-les-Dombes vào Chúa Nhật, ngày 20 tháng 8 cùng năm 1617. Hôm đó, ngài nhận được một sự soi sáng bổ sung cho sự soi sáng mà ngài đã nhận được tại Gannes-Folleville:

“Hội Bác Ái đầu tiên được thành lập. Một lần nữa, chúng ta hãy lắng nghe lời của thánh vinh sơn về sự kiện này: Tôi, tuy bất xứng, là cha xứ của một giáo xứ nhỏ. Khi tôi đang chuẩn bị ra dâng lễ, có người đến báo cho tôi biết có một người đàn ông nghèo khó đang bị bệnh và đang sống rất khó khăn trong một nhà kho tồi tàn. Tôi được thông báo về bệnh tật và cảnh nghèo khó của ông bằng những lời lẽ đầy cảm thông, đến nỗi, động lòng trắc ẩn, tôi đã khẩn khoản cầu xin, nói với giọng đầy cảm xúc khiến tất cả các bà đều xúc động. Hơn năm mươi người trong số họ đã rời khỏi thị trấn, và tôi cũng vậy. Khi đến thăm ông, tôi thấy ông trong tình trạng đến nỗi tôi nghĩ rằng thật khôn ngoan khi giải tội cho ông. Khi tôi đang mang Mình Thánh Chúa đến cho ông, tôi thấy các bà đang lũ lượt trở về, và Chúa đã cho tôi ý nghĩ này: ‘Liệu những bà tốt bụng này có thể được quy tụ lại và khích lệ để tận hiến cho Chúa, phục vụ những người nghèo đau bệnh hay không?’

… Sau bữa tối, một cuộc họp được tổ chức tại nhà một phụ nữ tốt bụng trong thị trấn để xem có thể giúp đỡ họ bằng cách nào, và tất cả những người có mặt đều cảm thấy được thúc giục đến thăm họ, an ủi họ bằng những lời lẽ của mình, và làm những gì có thể để giúp đỡ họ. Sau Kinh Chiều, tôi dẫn theo một công dân chính trực của thị trấn, và chúng tôi cùng nhau lên đường đến đó. Trên đường đi, chúng tôi gặp một số phụ nữ đã đi trước chúng tôi, và đi xa hơn một chút, chúng tôi gặp những người khác đang trên đường trở về nhà. Vì lúc đó là mùa hè và thời tiết rất nóng, những phụ nữ tốt bụng đó ngồi bên vệ đường để nghỉ ngơi và thư giãn… và đó là nơi đầu tiên Hội Bác Ái được thành lập.”[40]

Bài giảng của Thánh Vinh Sơn Phaolô đã khơi dậy một cảm thức sâu sắc về Lời Chúa trong lòng giáo dân. Tất cả họ đều được thúc đẩy làm việc bác ái để giúp đỡ những người gặp khó khăn, như lời kêu gọi của Thánh Vinh Sơn từ bục giảng. Bài giảng của ngài đã trở thành ánh sáng soi rọi vào thực trạng đó, mang đến cho họ kinh nghiệm bác ái để phục vụ những người lân cận đang cần sự giúp đỡ. Chắc chắn, Thánh Vinh Sơn đã không chỉ giảng bằng lời của mình, mà bằng Lời Chúa, bởi vì chỉ có Lời Chúa mới có thể chạm đến những điểm sâu thẳm nhất trong trái tim họ: “Bài giảng ‘là một phần của hành động phụng vụ’ và nhằm mục đích nuôi dưỡng sự hiểu biết sâu sắc hơn về Lời Chúa để Lời Chúa có thể sinh hoa trái trong đời sống tín hữu”. Bài giảng là phương tiện đưa thông điệp Kinh Thánh vào cuộc sống, giúp tín hữu nhận ra rằng Lời Chúa hiện diện và hoạt động trong cuộc sống thường nhật của họ. Bài giảng phải dẫn đến sự hiểu biết về mầu nhiệm đang được cử hành, đóng vai trò như một lời kêu gọi thi hành sứ vụ, và chuẩn bị cho cộng đoàn tuyên xưng đức tin, đọc lời nguyện chung và tham dự phụng vụ Thánh Thể. Do đó, những người được một mục vụ cụ thể giao nhiệm vụ rao giảng phải hết sức lưu tâm đến nhiệm vụ này.”[41]

1.3. Phương pháp giảng thuyết theo Thánh Vinh Sơn Phaolô

Văn khố Lưu trữ của Tu hội Truyền giáo có rất ít bài giảng của Thánh Vinh Sơn Phaolô. Thật khó cho các anh em Vinh Sơn muốn tìm hiểu hay học hỏi từ ngài trong việc giảng thuyết hay bài giảng này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn giữ được các tài liệu về các tác phẩm của ngài, ít nhất cũng hữu ích cho tất cả chúng ta trong việc khám phá những bí mật.

Việc rao giảng là một cam kết của Tu Hội Truyền Giáo được Đức Tổng Giám mục Paris chấp thuận để thành lập hội dòng mới trong giáo phận của ngài: “Họ đã quy tụ lại và thành lập một Tu hội, nơi họ sống dưới danh nghĩa và tên gọi là Linh mục Truyền giáo hay các nhà Truyền giáo. Họ sống dưới sự hướng dẫn và sửa dạy của Thánh Vinh Sơn Phaolô, tận tụy hết mình cho việc cứu rỗi những người sống ở nông thôn. Vì mục đích này, họ đi từ thị trấn này sang thị trấn khác, từ làng này sang làng khác, giảng bài giảng và khuyên nhủ cho dân chúng. Họ dạy cho mọi người, cả công khai lẫn riêng tư, giáo lý và các mầu nhiệm đức tin cần thiết cho ơn cứu rỗi, mà hầu hết mọi người đều hoàn toàn mù tịt.”[42]

Lời chỉ dẫn này rất rõ ràng đối với cộng đoàn truyền giáo. Đó là một phần nhiệm vụ mà các nhà truyền giáo đầu tiên phải làm để cứu rỗi người nghèo và các tín hữu. Để làm điều này một cách hiệu quả, Thánh Vinh Sơn đã dạy các nhà truyền giáo Vinh Sơn cầu nguyện khi chuẩn bị bài giáo lý hoặc bài giảng đạo và học hỏi từ các bài giảng của các tông đồ: “Hãy cầu nguyện, hãy xem xét các bài giảng của Ngài như thế nào và so sánh chúng với các thư tín và bài giảng của Thánh Phêrô, Thánh Phaolô và các Tông đồ khác. Dường như Ngài sử dụng phong cách của một người có kiến thức hạn hẹp, còn phong cách của các Tông đồ của Ngài là phong cách của những người có kiến thức sâu rộng hơn Ngài rất nhiều.”[43]

Có lần Thánh Vinh Sơn đã nói về sự cần thiết của một bài giáo lý hoặc bài giảng để hoàn thành sứ vụ, như ngài đã nói với Du Chesne, người rất yêu mến việc truyền giáo của ngài, tuy nhiên, “nếu không có sự hỗ trợ của sự giúp đỡ này trong các hoạt động thiêng liêng như thăm viếng, khuyên nhủ, bài giảng và hướng dẫn giáo lý, ngài cảm thấy mình sẽ không thể bắt đầu hay tiếp tục bất cứ điều gì.” Chi tiết này cho thấy Thánh Vinh Sơn nhấn mạnh vai trò của bài giảng trong truyền giáo. Các nhà truyền giáo sẽ sợ hãi nếu không có bài giảng hỗ trợ.

Đôi khi Thánh Vinh Sơn Phaolô khuyến khích các anh em của mình giảng đạo tại các giáo xứ truyền giáo, như ngài đã khuyến khích Nicolas Demonchy, bề trên ở Toul: “Xin hãy suy nghĩ kỹ. Đừng quên thỉnh thoảng đến đó giảng đạo và thăm viếng người bệnh.”[44] Đối với Thánh Vinh Sơn, việc giảng đạo hay bài giảng là một nhiệm vụ và là sự chuẩn bị cho giáo xứ, nếu không có bài giảng hay bài giảng thì rất khó để tiếp tục công việc truyền giáo. Bởi vì hiệu quả của bài giảng hay bài giảng rất lớn đối với mọi người, như một nhà truyền giáo đã chia sẻ thành quả này với Thánh Vinh Sơn:

 “Trong chuyến truyền giáo mà chúng tôi vừa thực hiện ở Breda, chúng tôi nhận thấy mọi người không biết mệt mỏi khi đến nghe các bài giảng và các bài học giáo lý của chúng tôi. Họ đến với một mong muốn lớn lao được hưởng lợi từ những điều đó đến nỗi những gì họ nghe ở đó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng họ, kết quả là họ có thể bắt đầu hướng dẫn và khích lệ lẫn nhau sau đó.[45] Họ đã dành cả buổi sáng của ngày Rước lễ để hòa giải và ôm lấy nhau. Một trong những thành quả của bài giảng là sự khích lệ mọi người đón nhận các bí tích như rước lễ và xưng tội: Một dòng người đổ xô đến dự các bài giảng và buổi học giáo lý, và mong muốn xưng tội lớn đến nỗi họ đánh thức chúng tôi lúc nửa đêm để thực hiện nghi lễ này.”[46]

Một dịp khác được một nhà truyền giáo khác chia sẻ tại Turin vào năm 1657: “Điều làm tôi ngạc nhiên hơn nữa là hầu hết các tu sĩ từ năm hoặc sáu tu viện đều đến nghe bài giảng, tất cả các linh mục đều xưng tội chung, và tất cả các quý tộc – trong số đó có nhiều người ‘không nghĩ đến điều gì khác ngoài việc đặt mình vào thái độ chân thành của sự ăn năn thực sự.’”[47] Một ngày nọ, nhà truyền giáo đã thấy kết quả của bài giảng của họ đã chạm đến trái tim của mọi người: “Ông kể rằng một người phụ nữ đã rất xúc động sau khi nghe bài giảng và đã xưng tội với nỗi buồn lớn đến nỗi bà nói với ông, ‘Thưa cha, con rất hối hận về tội lỗi của mình và vô cùng xấu hổ về cuộc sống khốn khổ trong quá khứ của mình đến nỗi con muốn tất cả tội lỗi của mình được viết trên trán để mọi người đọc nó.’”[48]

Một khía cạnh khác của bài giảng hay bài giảng đạo là cách suy niệm Lời Chúa. Việc suy niệm này rất quan trọng đối với các nhà truyền giáo Vinh Sơn:[49] “Suy niệm là bài giảng mà chúng ta tự thuyết giảng để xác tín rằng chúng ta cần phải hướng về Chúa và cộng tác với ân sủng của Người để nhổ tận gốc những tật xấu khỏi tâm hồn và gieo trồng những nhân đức vào đó.” Đối với Thánh Vinh Sơn Phaolô. Bài giảng không phải dành cho mọi người, mà trước hết là dành cho chính các nhà truyền giáo để nuôi dưỡng tâm hồn họ bằng Lời Chúa. Văn kiện Công đồng Vatican II đã nêu rất rõ về việc suy niệm trong bài giảng đạo: “Từ lời giải thích sống động này, Lời Chúa được công bố trong bài đọc và việc Giáo hội cử hành phụng vụ trong ngày sẽ có tác động lớn hơn. Nhưng điều này đòi hỏi bài giảng đạo thực sự là hoa trái của việc suy niệm, được chuẩn bị cẩn thận, không quá dài cũng không quá ngắn và phù hợp với tất cả những người hiện diện, kể cả trẻ em và người không có học thức.”[50]

Về phương pháp, Thánh Vinh Sơn đề cập đến phương pháp mà ngài học được từ các hội dòng khác, chẳng hạn, ngài tổ chức buổi họp để thảo luận về cách giảng đạo:

“Các cha dòng Orator có thói quen thực hành giảng đạo theo cách đó — bốn người mỗi ngày. Có đúng vậy không, thưa cha Almeras, người đã từng đến Rome, nơi thực hiện điều đó?” “Vâng, thưa cha đúng như vậy ạ,” cha Almeras nói, “bốn người trong số họ giảng đạo nửa tiếng mỗi người.”

“Ý cha là bốn người trong số họ lên bục giảng và giảng đạo, mỗi người giảng nửa tiếng về bốn chủ đề khác nhau; đúng vậy không, thưa cha Martin?” “Vâng, thưa cha,” cha Martin nói, “con đồng ý như thế ạ.”

“Vậy là bốn người giảng; mỗi người có nửa giờ cho các chủ đề khác nhau; một người về Phúc Âm, một người về một Bí Tích nào đó, một người về cuộc đời của một vị thánh, và một người về một nhân đức nào đó, cứ như vậy, trên một bục giảng thấp. Cũng có một bục giảng cao, nơi giảng đạo; thông thường các tu sĩ dòng Capucin và một số dòng khác – tôi quên mất là dòng nào – giảng trên bục giảng cao trong nhà thờ của các cha bên dòng của cha John Eudes (Oratorian), nhưng các cha dòng này chỉ giảng từ bục giảng thấp nhỏ đó.”[51]

Không chỉ cách giảng, Thánh Vinh Sơn còn rất quan tâm đến phương pháp giảng thuyết. Sự thành công của bài giảng phụ thuộc vào phương pháp và việc áp dụng nó vào những hoàn cảnh khác nhau của người nghe: “Vậy thì, bài giảng của tôi là về phương pháp giảng thuyết tốt. Và, bằng cách áp dụng phương pháp, tôi có thể tự mình thực hành. Tôi chia bài giảng của mình thành ba điểm: điểm thứ nhất, chúng ta sẽ thấy những lý do thúc đẩy chúng ta yêu thích phương pháp này; điểm thứ hai, tôi sẽ giải thích phương pháp này bao gồm những gì để chúng ta có thể làm quen và có thể áp dụng trong tương lai; và điểm thứ ba, tôi sẽ trình bày một số phương tiện giúp chúng ta đạt được phương pháp này.”[52]

Phương pháp ba điểm dường như là cách tốt nhất để chuẩn bị bài giảng. Các nhà truyền giáo dễ dàng thực hiện phương pháp này và giáo dân cũng dễ dàng tiếp thu những lý tưởng mà các nhà thuyết giáo đưa ra. Việc ghi nhớ phương pháp này cũng rất dễ dàng.[53] Đó là một phương pháp nhỏ mà Thánh Vinh Sơn Phaolô khuyến khích các nhà truyền giáo Vinh Sơn sử dụng trong việc truyền giáo của mình: “Hãy thuyết giảng như anh em nên làm, bằng sự giản dị, bằng lời lẽ gần gũi và bình dị.”[54] Thánh Vinh Sơn Phaolô đã ca ngợi mẫu gương của Thánh Phippip Neri về bài giảng mà ngài đã giảng cho giáo dân: “Tôi thấy ngài vẫn còn sống – có một người đã thuyết giảng rất hay, không quá nửa tiếng, nhưng phong cách có phần cao siêu hơn bình thường; có điều gì đó khiến ngài bị cuốn theo. Tuy nhiên, mọi người đều ngưỡng mộ, và bài giảng của ngài thậm chí còn hữu ích. Nó hữu ích nhưng cao siêu hơn bình thường một chút.”[55] Chi tiết hơn, chúng ta thấy phương pháp ba điểm: “Tiếp tục với phương pháp của chúng ta, chúng ta sẽ chia chủ đề thành ba điểm, là những điểm thường được sử dụng trong các bài giảng của chúng ta. Một số tác giả cho rằng Thánh Vinh Sơn có thể đã chịu ảnh hưởng gián tiếp từ bầu không khí trí tuệ của Descartes, qua việc ngài nhấn mạnh vào sự rõ ràng và trật tự logic.

Sở dĩ, Thánh Vinh Sơn đề xuất phương pháp nhỏ (petite méthode), vì là vào thời của ngài, người ta đang rất quan tâm đến phương pháp luận của Rene Descartes qua tác phẩm Luận văn về phương pháp (Discours de la méthode, 1637) để tìm chân lý trong khoa học.Tuy nhiên, phương pháp này việc nhấn mạnh vào học thức uyên bác và sự phức tạp này lại có một nhược điểm: nhiều bài giảng và giáo huấn không được người dân thường đón nhận. Những bài giảng dài dòng, khoa trương có thể ‘vượt quá tầm hiểu biết’[56] – theo lời của chính Thánh Vinh  Sơn – tức là, người dân thường không thể hiểu được. Thánh Vinh Sơn Phaolô (1581–1660), người cùng thời với Descartes, đã chứng kiến ​​sự ngưỡng mộ dành cho các phương pháp duy lý và lối hùng biện hoa mỹ có thể khiến trái tim của những tín hữu nghèo khổ nhất trở nên trống rỗng. Trái ngược với ‘phương pháp vĩ đại’ triết học thời thượng, hướng đến lý trí và uy tín trí tuệ, Thánh Vinh Sơn cảm nhận được nhu cầu về một phản ứng thiêng liêng và sư phạm phù hợp với việc truyền giáo cho những người khiêm nhường.

Chẳng hạn, trong một dịp, ngài đã chia sẻ về phương pháp soạn một bài giảng: “Trong phần đầu tiên, chúng ta sẽ xem xét động cơ và lý do chúng ta phải dâng mình cho Chúa để đổi mới trong chúng ta tình yêu đối với việc thực hành các giáo huấn Phúc Âm, phù hợp với những gì tôi đã nói với anh em về chúng khi tôi nói chuyện với anh em lúc trước. Trong phần thứ hai, tôi sẽ chỉ ra những Quy tắc và giáo huấn nào hữu ích nhất và phù hợp nhất với ơn gọi của chúng ta. Trong phần thứ ba, chúng ta sẽ nói về phương tiện; tất cả vì vinh quang lớn lao hơn của Chúa và sự thánh hóa linh hồn chúng ta.”[57] Điều này đã trở thành một đức tính mà các anh em Vinh Sơn cần chuẩn bị bài giảng của mình thật tốt.

Tuy nhiên, chúng ta đã rất ngạc nhiên về Thánh Vinh Sơn, khi ngài thú nhận rằng ngài chỉ có một bài giảng về chủ đề kính sợ Chúa, nhưng ngài đã điều chỉnh nó theo nhiều cách: “Ở bất cứ nơi nào tôi đến, tôi chỉ có một bài giảng, mà tôi đã điều chỉnh theo hàng ngàn cách khác nhau: đó là về sự kính sợ Chúa.”[58]  Mặc dù chỉ có một bài giảng, Thánh Vinh Sơn đã điều chỉnh nó theo nhiều cách, nghĩa là ngài tập trung vào Chúa Kitô trong bài giảng của mình. Chúa Giêsu Kitô là thông điệp chính gửi đến người nghe để thay đổi cuộc sống của họ ngày càng tốt hơn. Như từ thời Thánh Vinh Sơn đến thời Thánh Alfonso de Liguori đều hướng đến một trọng tâm của bài giảng, là giúp người ta hoán cải “rằng thành quả lớn nhất của công cuộc đại phúc là việc sửa chữa những tội nhân phạm những tội nặng nề nhất.”[59]

Thêm vào đó, khi nói về việc giảng đại phúc trong những thời gian đầu của Tu hội, mặc dù giảng đại phúc đã được các dòng khác thực hiện từ rất lâu, Thánh Vinh Sơn đã nhắc nhở các anh em mình tránh để các bài giảng trở nên một cuộc tranh luận hay làm khủng hoảng đức tin. Sở dĩ ngài nói điều này, vì lúc bấy giờ có sự nổi lên rất mạnh mẽ của người Tin Lành. Và các dòng khác đã vướng phải vấn đề tranh cãi về tín lý trong các bài giảng của mình, ngài nói rõ với các bạn đồng hành rằng ngài không có ý định cải đạo một cách có hệ thống những người theo đạo Tin Lành. Ngài cũng phản đối việc thảo luận với các mục sư và những bài giảng gây tranh cãi.[60] Cho nên như ngài và Berulle đề nghị rằng việc rao giảng phải đơn sơ và thực tế.[61]

Trong phần này, kinh nghiệm của Thánh Vinh Sơn trong việc giảng thuyết là một kinh nghiệm cho chúng ta, những linh mục thuộc Tu Hội Truyền Giáo. Phương pháp soạn thảo bài giảng rất quan trọng, và cách áp dụng nó vào thực tế cũng không kém phần quan trọng. Cần có sự linh hoạt để có một bài giảng hay trong thực tế cụ thể.

4. Bài giảng trong đời sống của các nhà truyền giáo Vinh Sơn

Cuối cùng, sau khi nghiên cứu lịch sử các bài giảng hay bài giảng trong đời sống của Thánh Vinh Sơn Phaolô, và trong truyền thống của Giáo hội, chúng ta thấy rằng Giáo hội không thể sống sứ mệnh của mình nếu không có bài giảng. Bài giảng trở thành một phần của đời sống thiêng liêng, đặc biệt là trong công cuộc truyền giáo. Vì vậy, bất kỳ nhà giảng thuyết nào, dù là Vinh Sơn hay không, đều phải được giao nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa cho các tín hữu và những người chưa nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. Nói chung, “người thuyết giáo có một nhiệm vụ to lớn: nói từ Kinh thánh… với một hội chúng đang tụ họp theo cách mà những người tụ họp có thể thờ phượng Chúa trong thiêng liêng và lẽ thật, và sau đó tiến lên để yêu thương và phục vụ Chúa.”[62]

Họ phải là người trung gian giữa Lời Chúa và lòng người. Họ phải mở ra con đường dẫn dắt con tim đến với Lời Chúa và biến đổi ý chí, tâm trí và trái tim của họ. “Tóm lại, người giảng thuyết làm hai việc trong mỗi bài giảng phụng vụ: giảng dạy và lay động; giảng dạy về các nhân đức và các tật xấu: các nhân đức để làm cho chúng được yêu mến, thực hành và bám víu vào; các tật xấu để chúng bị ghét bỏ, bị chống lại và bị loại bỏ. Bạn phải soi sáng lý trí và sưởi ấm ý chí. Các nhà giảng thuyết luôn gắn kết bài giảng phụng vụ của mình với một trong bốn nền tảng: đức tin, luân lý, các bí tích và cầu nguyện, vốn vẫn là nền tảng của sách giáo lý Rôma hiện hành.”[63]

Các nhà truyền giáo Vinh Sơn phải tuân theo chỉ dẫn của Giáo hội về chương trình phụng vụ và cách chúng ta có thể sống mầu nhiệm cứu độ trong thời điểm cụ thể của năm. Họ phải trung thành với các bản văn Kinh Thánh và tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của bản văn đó để giảng cho mọi người. Mục đích là giúp họ sống mầu nhiệm cứu độ trong một hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống: “Thông qua bài giảng, mầu nhiệm đức tin và nguyên tắc chỉ đạo của đời sống Kitô hữu được trình bày từ các văn bản thiêng liêng trong năm phụng vụ.”[64]

Điều này giúp các tín hữu hiểu rõ mối liên hệ giữa mầu nhiệm cứu độ với đời sống thường nhật. Lời Chúa sẽ soi sáng cho mọi người, giúp họ sống sốt sắng sứ điệp đã nghe từ Kinh Thánh và sống theo: “Vì vậy, nhiệm vụ chính của người giảng thuyết không phải là giải thích mà là diễn giải. Người giảng thuyết tìm cách chú tâm đến khoảnh khắc hiện tại, khi mạc khải các sự kiện trong quá khứ và những khả năng tương lai của Thiên Chúa được nhìn thấy dưới ánh sáng của các cuộc thần hiện hiện tại. Waznak kết luận rằng mỗi bài giảng nên dẫn dắt dân Chúa nhận ra một lời sống động có ý nghĩa trong Bí tích Thánh Thể và những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống của họ.”[65]

Một người giảng thuyết phải dành thời gian để chuẩn bị một bài giảng hay. Chính từ trái tim của người giảng thuyết, trước tiên người ấy cần suy ngẫm về bài giảng và sau đó chia sẻ kinh nghiệm của mình về những gì mình suy ngẫm cho người khác. Bài giảng rất sống động đối với những ai muốn lắng nghe. Đó không phải là một “buổi trò chuyện” mà là sự chia sẻ đức tin mà người giảng thuyết có được qua lời Chúa. Như Karl Rahner đã từng viết, mỗi linh mục chỉ tiếp thu sâu sắc một vài hiểu biết về Phúc Âm và phải rao giảng từ những hiểu biết đó. Chúng ta phải rao giảng từ cốt lõi kinh nghiệm đức tin của con người, hoặc không rao giảng gì cả. Như một người bạn linh mục đã từng nhận xét: “Lời rao giảng của tôi trở nên tốt hơn rất nhiều, khi tôi quyết định chỉ rao giảng những gì tôi tin.”[66]

Với các nhà truyền giáo Vinh Sơn, việc giảng thuyết hay rao giảng Lời Chúa không phải là để chia sẻ kinh nghiệm đức tin của họ, mà ngược lại, họ được người nghèo truyền giáo, bởi vì họ là chủ và là chúa của chúng ta. Đức tin của họ giúp chúng ta đánh giá đức tin của mình và giúp chúng ta lựa chọn lối sống phù hợp với đức tin đó. Việc truyền giáo này giúp chúng ta khám phá ra “hạt giống lời Chúa” quý báu ẩn chứa trong họ, cuối cùng sẽ truyền giáo cho chúng ta. Qua bài giảng, các nhà truyền giáo Vinh Sơn nhận ra các nhân đức của người nghèo. Họ có một đời sống Kitô hữu đích thực với các nhân đức Kitô giáo. Vì vậy, khi giảng thuyết cho họ, các nhà truyền giáo Vinh Sơn đã truyền giáo bằng các nhân đức của họ. Do đó, có hai yếu tố để các nhà truyền giáo Vinh Sơn truyền giáo cho người nghèo: “Khắc khổ và tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa là hai nguyên tắc cơ bản để truyền giáo và được truyền giáo bởi người nghèo.”[67]

Điểm khác mà các nhà thuyết giáo phải tập trung vào về Chúa Kitô, điều đó có nghĩa là bài giảng phải lấy Chúa Kitô làm trung tâm: “Bài giảng phải lấy Chúa Kitô làm trung tâm, không có ai và không có gì khác làm trung tâm và nội dung ngoài Chúa Giêsu Kitô.” Các nhà thuyết giáo cần có nền tảng vững chắc về Kitô học để xây dựng bài giảng của mình. Bởi vì lời công bố không phải về người khác mà là về Chúa Kitô. Điểm này mà các nhà truyền giáo Vinh Sơn phải ghi nhớ để tìm hiểu thêm về Kitô học. Điều này cũng giống như việc tập trung vào Kinh thánh và truyền thống của Giáo hội khi giải thích lời Chúa. Nó phải bắt nguồn từ sự mặc khải. Như Bryan Chapell đã đúng, khi ông khẳng định: Các nhà thuyết giáo không thể giải thích đúng đắn một hạt giống (hoặc một phần) của mặc khải Kinh Thánh, ngay cả khi họ nói nhiều điều đúng về nó trừ khi họ liên hệ nó với công việc cứu chuộc của Chúa mà tất cả Kinh thánh cuối cùng có mục đích tiết lộ. Theo nghĩa này, toàn bộ Kinh Thánh đều lấy Chúa Kitô làm trung tâm, bởi vì công trình cứu chuộc của Ngài, trong tất cả các chiều kích nhập thể, chuộc tội, phục sinh, cầu bầu và ngự trị, chính là đỉnh cao của mọi mạc khải của Thiên Chúa về cách Ngài đối xử với dân Ngài. Do đó, không một khía cạnh nào của Mạc Khải có thể được hiểu hay giải thích thấu đáo, nếu tách biệt khỏi một khía cạnh nào đó trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.[68] Bài giảng phải đạt đến ‘chiều sâu’ thiêng liêng, tức là Kitô học của Kinh Thánh. Làm thế nào chúng ta có thể tránh được khuynh hướng đạo đức giả và vun trồng lời kêu gọi quyết định bằng đức tin?[69]

Việc truyền giáo qua bài giảng là một nhân đức nhiệt thành của Thánh Vinh Sơn. Nhân đức này thúc đẩy các nhà truyền giáo Vinh Sơn không ngừng thực hiện sứ mệnh của mình như một hoạt động mục vụ là công bố Lời Chúa. Điểm này đã được Đức Giáo hoàng Phaolô VI gọi trong Tông huấn Giáo hội Ecclesiam Suam: “Rao giảng là sứ vụ tông đồ hàng đầu. Thưa các anh em đáng kính, sứ vụ của chúng ta, trên hết, là sứ vụ của Lời Chúa. Chúng ta nhận thức rõ điều này, nhưng chúng ta nên nhắc nhở bản thân về điều này ngay lúc này để định hướng đúng đắn cho các hoạt động mục vụ của mình. Chúng ta phải trở lại với việc học hỏi, không phải về những lời lẽ sáo rỗng của con người, mà là về nghệ thuật đích thực của việc công bố Lời Chúa.”[70] Đây là một điểm nổi bật trong cuộc đời của Thánh Vinh Sơn Phaolô, ngay cả khi ngài rất yếu trên giường bệnh. Nhưng ngài vẫn khao khát được ra đi truyền giáo:

“Tôi nêu lên những vấn đề này, hỡi các anh em thân mến, trước khi chúng xảy ra, bởi vì biết đâu chúng sẽ xảy ra. Tôi không thể tiếp tục lâu hơn nữa; tôi sắp qua đời; tuổi tác, sức khỏe yếu kém, và những điều ghê tởm trong cuộc sống không cho phép Chúa để tôi sống lâu trên trần gian. Vậy nên, sau khi tôi qua đời, có thể sẽ có những kẻ gây rối và hèn nhát xuất hiện… Nhưng, lạy Chúa, lạy Chúa, chẳng phải Chúa đã sai Thánh Tôma và các Tông đồ khác đến Ấn Độ và trên khắp thế giới sao? Chẳng phải Chúa đã giao cho họ trách nhiệm chăm sóc và hướng dẫn mọi người nói chung và nhiều người và gia đình nói riêng sao? Không sao cả; ơn gọi của chúng ta là: Loan báo Tin Mừng cho người nghèo.”[71]  

Cho nên ngay từ đầu cho sứ vụ truyền giáo của Tu hội, Thánh Vinh Sơn đã tổ chức các ngày Thứ Ba cho các ứng sinh linh mục và phó tế, ở đây không những họ được tổ chức tĩnh tâm để lãnh chức thánh, mà còn có cơ hội học hỏi cho đời sống linh mục tương lai của mình. Mà điều này với Thánh Vinh Sơn, đó là điểu quan trọng và cao cả, vì các linh mục được chia sẻ vào trong chức linh mục đời đời của Đức Kitô. Vì thế, họ cũng được học hỏi về phương pháo nhỏ để chuẩn bị các bài giảng, học hỏi về các nhân đức.[72]

Đặc biệt, công cuộc truyền giáo đòi hỏi các giáo sĩ phải chú ý cẩn thận đến cả nội dung và cách thức họ rao giảng. Nhưng trước tiên, họ cần một người rao giảng nhiệt thành cho nhiệm vụ này.

Các nhà truyền giáo Vinh Sơn phải trở thành chứng nhân cho những gì họ rao giảng cho dân chúng. Đó là một chứng nhân của cuộc sống bằng hành động chứ không chỉ bằng lời nói, xin được nhắc lại như Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã tuyên bố, “… Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thây dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng”..”[73] Dân chúng được truyền bá Phúc Âm qua cuộc sống của những người giảng thuyết hơn là lắng nghe lời họ nói. Hiệu quả của bài giảng sẽ tăng lên nếu nó được đi kèm với những tấm gương sáng của những người giảng thuyết như Đức Ông Clavell nhắc lại điều này: “Các tín hữu phải có thể nắm bắt được tình yêu của người giảng thuyết đối với Chúa Kitô, được thể hiện trong giọng điệu, cách diễn đạt mà họ sử dụng, niềm vui, sự giản dị và lòng nhiệt thành của họ.” Niềm vui của phúc âm là cảm thức của những người giảng thuyết. Niềm vui của phúc âm mang đến cho người nghe một Chúa Kitô sống động trong xã hội của chúng ta.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định điều này khi ngài mô tả hình ảnh của những người truyền giáo hay những nhà thuyết giảng: “Do đó người loan báo Tin Mừng không bao giờ được mang bộ mặt của một người vừa đi đưa đám về! Chúng ta hãy lấy lại và đào sâu sự phấn khởi của mình, đào sâu “niềm vui dịu ngọt và phấn khởi của việc loan báo Tin Mừng, cả khi chúng ta phải gieo trong nước mắt… Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, một thế giới đang kiếm tìm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hi vọng, có thể nhận được tin mừng không phải từ những người rao giảng rầu rĩ, chán nản, mất kiên nhẫn hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên Tin Mừng đang sống một cuộc đời đầy nhiệt huyết, những người trước đó đã nhận được niềm vui của Đức Kitô”.”[74] Đó là hình ảnh của Giáo hội, một giáo hội là môn đệ của Chúa Giêsu và Vương quốc của Người. Giáo hội được mời gọi thực hành sứ mệnh của mình với lòng nhiệt thành của Phúc Âm.

Các nhà truyền giáo Vinh Sơn phải học hỏi nhiều hơn và liên tục cách giảng dạy sao cho hiệu quả và làm tốt trong mọi trường hợp. Đồng thời, họ cũng phải tránh những sai lầm có thể khiến bài giảng trở nên kém hiệu quả và gây khó chịu cho giáo dân. Một số sai lầm họ cần lưu ý như đạo đức giả, nông cạn, trừu tượng, khái quát hóa, hoặc thiếu các nguyên tắc, thiếu ví dụ, thiếu cụ thể, dễ đoán trước.

KẾT LUẬN

Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã giải thích lời công bố đầu tiên trong bối cảnh truyền giáo, và xin được nhắc lại lần nữa ở đây: “Lời rao giảng đầu tiên này được gọi là “đầu tiên” không phải vì nó xuất hiện lúc ban đầu và rồi có thể bị lãng quên hay thay thế bằng một cái gì quan trọng hơn. Nó là đầu tiên theo nghĩa phẩm tính vì nó là lời rao giảng chính, lời rao giảng mà chúng ta phải nghe đi nghe lại bằng nhiều cách khác nhau, phải loan báo bằng cách này hay cách khác trong suốt tiến trình huấn giáo, ở mọi cấp độ và mọi thời điểm. Cũng vì lý do này, “linh mục—như mọi thành viên khác của Hội Thánh—phải lớn lên trong sự ý thức rằng bản thân họ luôn luôn cần được loan báo Tin Mừng.”[75] Bối cảnh này cũng được hiểu trong việc giảng bài. Bài giảng được lặp đi lặp lại trong phụng vụ. Nhưng nó không trở nên cũ kỹ hay lỗi thời mà vẫn mang đến một tinh thần mới trong mỗi cử hành mà bài giảng được thực hiện.

Trở lại với di sản của Thánh Vinh Sơn Phaolô. Chúng ta có một cơ hội tốt để tìm hiểu về các vị sáng lập của mình trong cách thức và phương pháp giảng bài. Đồng thời, chúng ta cũng nhận ra tầm quan trọng của bài giảng trong việc cử hành phụng vụ của Giáo hội. Thánh Vinh Sơn Phaolô đã rất thành công với sứ mệnh phổ biến bằng cách rao giảng Tin Mừng. Ngài trở thành môn đệ của Chúa Giêsu khi trung thành với nhiệm vụ truyền giáo cho người nghèo qua bài giảng hay bài giảng lễ, tức là lời chúng ta nói trong bối cảnh công tác mục vụ ngày nay.

Kỷ niệm Năm thánh Tu hội và Giáo hội 2025

Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM.

 

[1] Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, # 14.

[2] Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, # 33.

[3] Phaolô  VI, Evangelii Nuntiandi, # 43.

[4] Ibid.

[5] The 43 Assembly General of CM, “Final Ducument: Call to Revitalize the Identity of the CM,” https://cmglobal.org/en/files/2023/05/Final-Document-CALLS-TO-REVITALIZE-THE-IDENTITY-OF-THE-CM.pdf (cập nhật ngày 20/08/2025).

[6] Phanxicô, Evangelii Gaudium, # 135.

[7] Ibid.

[8] Ligonier Ministries, “Preaching the Kerygma,” tại https://www.ligonier.org/learn/devotionals/preaching-kerygma (cập nhật 01/09/2025).

[9] Gioan Phaolô II, Catechesi tradendae, # 25.

[10] Phanxicô, Evangelii Gaudium, # 164.

[11] Pieter Van Rooyen, “Preaching Dogma Kerygmatically,” https://www.hprweb.com/2024/02/preaching-dogma-kerygmatically/#fnref-30586-6 (cập nhật 02/09/2025).

[12] Phanxicô, Evangelii Gaudium, # 165.

[13] Congregation for the Clergy, General Directory for Catechesis, # 75.

[14] Bishops’ Committee on Priestly Life and Ministry, Fulfilled in Your Hearing: The Homily in the Sunday Assembly (U.S. Conference of Catholic Bishops, 1982), 21. Hoặc xem thêm Jonathan Mitchican, “The Lost Art of Catholic Preaching,” https://www.dappledthings.org/deep-down-things/14556/the-lost-art-of-catholic-preaching (cập nhật 02/09/2025). 

[15] Pontifical Biblical Commission, The Interpretation of the Bible in the Church (1993), IV.C.3 https://catholic-resources.org/ChurchDocs/PBC_Interp-FullText.htm (cập nhật 25/08/2025).

[16] Bênêdicto XVI, Deus Caritas Est, #1.

[17] Michael Connors, Effective Catholic Preaching, tại https://churchlifejournal.nd.edu/articles/effective-catholic-preachingpart-3/ (cập nhật ngày 25/08/2025). Và xem thêm  Alvin C. Rueter, Making Good Preaching Better: A Step-by-Step Guide to Scripture-Based, People-Centered Preaching (Collegeville, MN: The Liturgical, 1997), 80; Bishops’ Committee on Priestly Life and Ministry, Fulfilled in Your Hearing: The Homily in the Sunday Assembly (USCCB, 1982); Daniel Cardo, The Art of Preaching: A Theological and Practical Primer, Forword by  Timothy Gallagher (Washington D.C.: The Catholic University of America Press, 2021); J.E. Sigler, Holy Ghost in the Catholic Machine: Spirit-Structure Tension in Parish Preaching (Augene, OR: Work Wipf & Stock / Pickwick,  2023); Jos Moons, “Encounter or Proclamation? Roman-Catholic preaching according to Pope Francis and the Homiletic Directory”, The Furrow: Vol. 70, No. 11 (November 2019); Joseph Mele, The Sacred Conversation: The Art of Catholic Preaching and the New Evangelization (Steubenville, Ohio: Emmaus Road, 2008); Joshua J. Whitfield, The Crisis of Bad Preaching Redeeming the Heart and Way of the Catholic Preacher (Notre Dame, In: Eve Maria, 2019).

[18] Pio XII, Mediator Dei, # 20.

[19] Xem Vatican II, Sacrosanctum Concilium, # 7.

[20] Robert P. Waznak, “Homily” in The New Dictionary of Sacramental Worship, ed. Peter E. Fink (Collegeville, MN: Liturgical Press, 1990), 552.

[21] William Bausch, Story Telling – The Word Homilies and How to write them (New York: Paulist, 1996), 57. Cũng xem thêm Karla J. Bellinger and Michael E. Connors, Remembering Why We Preach: A Retreat to Renew Your Spirit and Skill (Notre Dame, IN: Ave Maria, 2022); Ken Untener, Preaching Better: Practical Suggestions for Homilists (New York/Mahwah, NJ: Paulist, 1999). Kiki Latimer, Home for the Homily: The Sacred Art of Homiletics (Dallas, TX: Route Books & Media, 2022). Michael E. Connors, Effective Preaching Bringing People into an Encounter with God (Chicago, IL: Liturgy Training,  2019).

[22] Lawrence Ekhayemhe Adorolo, “Theology of Liturgical Homily: Priestly Ministry and Challenges in Contemporary Homiletics,” in  Formation, the Catholic Priesthood and the Modern Age, ed. Francis E. Ikhianosime and Gregory E. Ogbenika (Benin: Mindex), (113-133): 80. Xem thêm Thomas J. Scirghi, Longing to See Your Face: Preaching in a Secular Age (Collegeville, MN: Liturgical 2017); United States Conference of Catholic Bishops, Preaching the Mystery of Faith: The Sunday Homily (Washington, DC: USCCB, 2013).

[23]  Bênêdicto XVI, Verbum Domini, # 1.

[24] Ibid, # 6.

[25] Bênêdicto XVI, Spe Salvi, #  30.

[26] Xem thêm Charles Fox, “What Direction Does the Church Give to Homilists?” Tại  https://www.hprweb.com/2021/05/what-direction-does-the-church-give-to-homilists/ (cập nhật 30/08/2025),  hoặc  Peter Lovrick, “The Fundamentals of Better Catholic Preaching,What is the Church’s vision for sermons?” tại https://www.the-deacon.com/2022/02/15/the-fundamentals-of-better-catholic-preaching/ (cập nhật 30/08/2025).

[27] Michael Mulvey, “The Homily is a Time for a Communication Between God and his People,” tại https://diocesecc.org/news/the-homily-is-a-time-for-a-communication-between-god-and-his-people (cập nhật 30/08/2025).

[28] Vatican II, Sacrosanctum Concilium, # 35.

[29] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Roma, #65. Hoặc xem thêm Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Homiletic Directory, tại https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20140629_direttorio-omiletico_en.html (cập nhật 30/08/2025).  

[30] Robert Waznak, “Homily” in The New Dictionary of Sacramental Worship, ed. Peter Fink (Dublin: Gill and Macmillan, 1990), 558.

[31] Patrick Chibuko, Paschal Mystery of Christ: Foundation for Liturgical Inculturation in Africa (New York: Peter Lang, 1999), 44. Xem thêm Michael Connors, “Effective Catholic Preaching,” tại https://churchlifejournal.nd.edu/articles/effective-catholic-preaching-part-1/(2,3,4) (cập nhật 02/09/2025).

[32] USCCB, What is Evangelization? – Go and Make Disciples, # 19. Xem thêm USCCB, Disciples Called To Witness (Part II, III, IV) tại https://www.usccb.org/beliefs-and-teachings/how-we-teach/new-evangelization/disciples-called-to-witness/disciples-called-to-witness-part-ii (cập nhật 02/09/2025). 

[33] Ibid, # 18.

[34] CCD XII, 77-78. CCD là viết tắt của Saint Vincent de Paul: Correspondence, Conferences, Documents, ed. Pierre Coste, CM., 14 vols. (Paris: 1920-1926) (CCD là được trích dẫn tử bản tiếng Anh).

[35] Phanxicô, Evangelii Gaudium, # 145.

[36] CCD  XI, 27-28.

[37]Antonio Orcajo, The Vincentian Charism Fidelity to the Founder’s Charism,  tại https://cmglobal.org/en/files/2018/07/The-Vincentian-Charism-Fidelity-to-the-Founder%E2%80%99s-Charism-Antonio-Orcajo-CM.pdf (cập nhật 02/09/2025).

[38] CCD XI, 3-4.

[39] J. M. Román, St. Vincent de Paul: A Biography, trans. Joyce Howard (Melisende, London, 1999), 115.

[40] CCD IX, 165-166, 192-193.

[41] Bênêdicto XVI, Verbum Domini, # 59.

[42] CCD I, 41.

[43] CCD I, 184.

[44] CCD V, 236.

[45] CCD V, 531.

[46] CCD V, 196.

[47] CCD VI, 335.

[48] CCD X, 54.

[49] CCD XI, 76.

[50] Phaolô VI, Evangeli Nuntiandi, # 43.

[51] CCD XI, 266.

[52] CCD XI, 238 và CCD IX, 237 (Conference 134, “Method to be Followed in Preaching,” 20 August 1655) . Xin xem thêm Charles Herbst, “The ‘Little Method’ of St. Vincent de Paul. A Reform in the Method of Preaching.” M.A. Thesis, Catholic University of America, Washington, D.C., 1951. Pp. 67. Và chính phương pháp chia bài giảng thành các điểm dường như đã đang ảnh hưởng đến nước Pháp thời bấy giờ, điều này đến từ các nhà giảng thuyết Tin Lành và trường phái triết học thời bấy giờ, đặc biệt là từ Bossuet, xem thêm tại Peter Bayley, French Pulpit Oratory, 1598–1650: A Study in Themes and Styles with a Descriptive Catalogue of Printed Texts (New York: Cambridge University Press, 1980), 101-103.

[53] CCD XI, 258.

[54] Xem thêm Pierre Coste, The Life and Works of Saint Vincent de Paul, trans. Joseph Leonard, C.M., vol2 (New York: New City Press, 1987), 219.

[55] CCD XI, 267.

[56] Sanderson Beck, “Vincent, Descartes & Corneille”, tại https://san.beck.org/10-9-VincentDescartes.html hoặc xem thêm: “ El «pequeño método» de San Vicente de Paúl frente al «gran método» cartesiano” tại  https://www.corazondepaul.org/2025/08/27/el-pequeno-metodo-de-san-vicente-de-paul-frente-al-gran-metodo-cartesiano/; Jeanne Shami, “Introduction: Reading Donne Sermons,” John Donne Journal, vols. 1&2 (Raleigh, NC: 1992), 1–19.

[57] CCD XII, 243. Xem thêm CCD, XI, 259 (Document 134, “Method to be Followed in Preaching).

[58] CCD XII, 8 và  CCD XI,1 (Conference 1, “The Vocation of a Missioner,”).

[59] Xem  Louis Chatellier, The Religions of the Poor: Rural Missions in Europe and the Formation of Modern Catholicism, c. 1500-c.1800, Bản tiếng Pháp: La religion des pauvres: les missions rurales en Europe et la formation du catholicisme moderne xuleme-xixeme siécles,  trans. Brian pearce (New York: Cambridge university press, 1997), 158.

[60] Ibid, 30-31.

[61] Ibid, 45.

[62] Bishops’ Committee on Priestly Life and Ministry, Fulfilled in Your Hearing: The Homily in the Sunday Assembly (U.S. Conference of Catholic Bishops, 1982), 21. Xem thêm Charles Fox, “The Call of the New Evangelization for Preachers,” tại https://www.hprweb.com/2020/02/the-call-of-the-new-evangelization-for-preachers/ (cập nhật 02/09/2025).

[63] Martin Vivies, “The Nature and content of Preaching” in Faith and Liturgy: The Proceedings of the Seventh International Colloquium of Historical, Canonical and Theological Studies on the Roman Liturgy (London: Ciel, 2002) 29-30.

[64] Vatican II, Sacrosanctum Concilium, # 52.

[65] Robert Waznak, “Homily”, 558.

[66] Xem John f. Baldovin, The Nature and Function of the Liturgical Homily, (93-101) tại https://www.theway.org.uk/back/s067Baldovin.pdf (cập nhật 30/08/2025).

[67] Eva Villar, “Being Evangelized by the Poor,” in Vincentiana: vol. 46: no. 4, article 11, 7. available at: https://via.library.depaul.edu/vincentiana/vol46/iss4/11.

[68] Bryan Chapell, Christ-Centered Preaching (Michigan: Grand Rapids, 2005), 276.

[69] Xem Marc Ouellet, Report before the Discussion of the General Reporter, XII Ordinary General Assembly of the Synod Of Bishops (October, 2008), 2A.

[70] Phaolô VI, Ecclesiam Suam, # 90.

[71] CCD XII, 79.

[72] Stanislaus Wypych, “St. Vicent de Paul, Formator of Priests,” Vincentiana: Vol. 44: No. 3, (2000).

Article 5, 5-6, Available at: https://via.library.depaul.edu/vincentiana/vol44/iss3/5.  

[73] Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, # 41.

[74] Phanxicô, Evangelii Gaudium, # 10.

[75] Phanxicô, Evangelii Gaudium, # 164.