Dấu Chỉ Hy Vọng Cho Người Nghèo

Đăng ngày: 15/09/2025
Danh mục: 2. CHIA SẺ

 

Salvatore Farì, C.M.

Văn phòng Truyền thông của Tu hội Truyền Giáo (CM), Rôma – Ý

salvatorecm77@gmail.com

Tóm tắt

Bài viết này khai thác các chủ đề về hy vọng, tình liên đới và phục vụ người nghèo, dưới ánh sáng của Đại Năm Thánh 2025 và Bốn trăm năm thành lập Tu hội Truyền giáo. Lấy cảm hứng từ lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô về việc trở thành “Những người lữ hành của Hy vọng”, bài viết nhấn mạnh sự cần thiết của tình huynh đệ phổ quát và sứ mạng của Giáo hội trong việc giải quyết vấn nạn nghèo đói, bất công và gạt ra bên lề xã hội. Sự đan xen giữa hy vọng và kiên nhẫn được thảo luận như một nền tảng cho đời sống Kitô hữu, gắn kết với các chiều kích ngôn sứ, hiệp hành và truyền giáo của linh đạo Vinh Sơn. Hình ảnh đôi tay – cho bánh ăn và cho lời cầu nguyện – làm nổi bật vai trò kép của Giáo Hội trong việc phục vụ hữu hình và hỗ trợ thiêng liêng cho người nghèo. Nhãn quan của Thánh Vinh Sơn Phaolô về việc nhìn thấy Chúa Kitô nơi những người đau khổ được xem xét lại, khẳng định rằng cầu nguyện và hành động là bất khả phân ly. Bài viết kêu gọi một cam kết mới mẻ đối với lòng thương xót và tình huynh đệ, thể hiện lời mời gọi của Đại Năm Thánh về hy vọng, công lý và tình yêu.

Từ khóa: Hy vọng, Bánh, Người nghèo, Đôi tay

1. Đôi tay cho bánh ăn, dấu chỉ hy vọng cho người nghèo

Đại Năm Thánh năm 2000, dưới thời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã đưa Giáo Hội bước vào thiên niên kỷ thứ ba của lịch sử, chúng ta đã trải nghiệm Năm Thánh Ngoại Thường về Lòng Thương Xót (ngày 8 tháng 12 năm 2015 – ngày 20 tháng 11 năm 2016), theo ước muốn của Đức Thánh Cha Phanxicô. Năm Thánh này đã cho phép chúng ta khám phá lại sức mạnh và sự dịu dàng của tình yêu thương xót của Chúa Cha, để đến lượt mình, chúng ta trở thành những chứng nhân cho tình yêu ấy. Gần đây hơn, chính Đức Giáo hoàng Phanxicô, vào ngày 11 tháng 2 năm 2022, đã viết một lá thư gửi Đức ông Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cổ võ Tân Phúc Âm hóa, ủy thác cho ngài trách nhiệm “tìm ra cách thức phù hợp để Năm Thánh (Năm Thánh 2025) có thể được chuẩn bị và cử hành với đức tin mãnh liệt, lòng cậy trông sống động và đức ái tích cực.”

Đức Thánh Cha Phanxicô viết rằng kinh nghiệm về đại dịch COVID-19, vốn “đã thay đổi cách sống của chúng ta, đôi khi đã gieo rắc nghi ngờ, sợ hãi và hoang mang trong tâm hồn chúng ta,” có thể được vượt qua “trong chừng mực chúng ta hành động với sự liên đới tích cực,” giữ cho ngọn đuốc hy vọng luôn bùng cháy. “Năm Thánh sắp tới – Đức Giáo hoàng tiếp tục – có thể giúp ích rất nhiều để khôi phục bầu khí hy vọng và tin cậy, như một dấu chỉ của sự tái sinh mới mà tất cả chúng ta đều cảm thấy cấp bách.” Vì vậy, ngài chọn khẩu hiệu là: Những người lữ hành của Hy vọng. “Tất cả điều này sẽ có thể nếu chúng ta có khả năng phục hồi ý thức về tình huynh đệ phổ quát, nếu chúng ta không nhắm mắt trước thảm kịch của sự nghèo đói lan tràn đang ngăn cản hàng triệu người nam, người nữ, người trẻ và trẻ em sống một cách có phẩm giá. Tôi đặc biệt nghĩ đến nhiều người tị nạn buộc phải rời bỏ quê hương của họ. Mong sao tiếng nói của những người nghèo được lắng nghe trong thời gian chuẩn bị cho Năm Thánh này, vốn theo lệnh truyền của Kinh Thánh, sẽ khôi phục quyền tiếp cận hoa lợi của đất đai cho mọi người.”

Sau năm 2023, được dành để suy tư về các tài liệu và nghiên cứu về thành quả của Công đồng Vatican II, năm 2024 là năm cầu nguyện, một “bản giao hưởng” vĩ đại của lời cầu nguyện được chuyển hóa thành sự liên đới và chia sẻ bánh hằng ngày, từ đó biến kinh Lạy Cha thành chương trình sống của chúng ta.

Năm 2025, các Nhà truyền giáo Vinh Sơn cũng sẽ cử hành Bốn trăm năm thành lập Tu hội Truyền giáo. Với mục tiêu này, chúng ta đang chuẩn bị bằng lời cầu nguyện và cam kết với sứ mạng để hồi sinh ba chiều kích của linh đạo Vinh Sơn của chúng ta, như đã được Cha Bề trên Tổng quyền, Cha Tomaž Mavrič, chỉ dẫn cho chúng ta, ngài viết: “chiều kích ngôn sứ, từ ân sủng của Thần Khí Thiên Chúa ‘trên chúng ta’, đến việc lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và sự sẵn sàng để quan tâm; chiều kích hiệp hành nhìn thấy sự vượt qua chủ nghĩa cá nhân để có một hành trình và hành động mang tính cộng đồng; chiều kích truyền giáo mà tính chân thực đến từ một đời sống tâm linh sâu sắc, sự hiệp thông mãnh liệt, sự gần gũi và tình bạn với Chúa Giêsu.”

Đối với mọi người, năm 2025 là “một năm hồng ân của Chúa, và chúng ta sẽ tạ ơn Chúa vì ân sủng ban cho tất cả các tín hữu qua Năm Thánh, và chúng ta sẽ cố gắng chuẩn bị thật tốt để đón nhận ân sủng đó” (SVit XI, 333). Một hành trình, được đánh dấu bằng các giai đoạn hướng tới Năm Thánh. Một hành trình để cùng nhau bước đi, rèn luyện bản thân để phục hồi nhận thức về việc tất cả chúng ta đều là synodoi, những người bạn đồng hành, nghĩa là hiệp hành.

Hy Vọng Không Bao Giờ Thất Vọng

Spes non confundit” – “hy vọng không bao giờ thất vọng”. Với những lời này của Thánh Tông đồ Phaolô (Rôma 5:5), Đức Thánh Cha Phanxicô, vào ngày 9 tháng 5 năm 2024, đã công bố Tông sắc triệu tập Năm Thánh Thường niên 2025. Năm Thánh này được mong đợi sẽ là cơ hội cho tất cả mọi người, đặc biệt là những ai đang bị hoài nghi và bi quan chi phối, để hồi sinh niềm hy vọng được nâng đỡ bởi Tình Yêu Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô viết: Hy vọng được sinh ra từ tình yêu và được đặt nền tảng trên tình yêu tuôn trào từ Trái Tim Chúa Giêsu bị đâm thâu trên Thập Giá.

Một nhân đức liên quan mật thiết đến hy vọng chính là kiên nhẫn. Trong một bối cảnh xã hội mà sự vội vã đã trở thành thường trực, nơi không gian và thời gian bị thay thế bởi “ngay tại đây và bây giờ”, chúng ta được mời gọi tái khám phá lòng kiên nhẫn, được hiểu là khả năng chờ đợi với sự tin tưởng mà không quên sự kiên nhẫn mà Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Từ sự đan xen giữa hy vọng và kiên nhẫn, rõ ràng đời sống Kitô hữu là một hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống; không phải ngẫu nhiên mà cuộc hành hương thể hiện một yếu tố cơ bản của mỗi sự kiện Năm Thánh.

Năm Thánh Thường niên 2025 bắt đầu vào ngày 24 tháng 12 năm 2024 với việc mở Cửa Thánh của Đền thờ Thánh Phêrô tại Vatican. Năm Thánh này sẽ kết thúc vào ngày 6 tháng 1 năm 2026 và sẽ dẫn lối đến một dấu mốc quan trọng khác cho tất cả các Kitô hữu: lễ kỷ niệm hai ngàn năm Ơn Cứu Chuộc đã được hoàn thành qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ được cử hành vào năm 2033.

Đức Giáo hoàng kêu gọi tất cả các Kitô hữu trở thành những dấu chỉ hữu hình của hy vọng cho những ai đang sống trong hoàn cảnh khó khăn: những tù nhân đang bị tước đoạt tự do, mỗi ngày, ngoài sự khắc nghiệt của cảnh giam cầm, còn trải nghiệm sự trống rỗng về cảm xúc, những hạn chế bị áp đặt và, trong không ít trường hợp, sự thiếu tôn trọng; những người bệnh, ở nhà hoặc trong bệnh viện; những người trẻ, những người thường thấy ước mơ của mình tan vỡ; những người di cư, những người rời bỏ quê hương để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình; những người bị lưu đày, người tị nạn, và những người chạy trốn, những người bị buộc phải bỏ chạy do các sự kiện quốc tế gây tranh cãi để tránh chiến tranh, bạo lực và phân biệt đối xử; những người cao tuổi, những người thường trải nghiệm sự cô đơn và cảm giác bị bỏ rơi; hàng tỷ người nghèo, những người thường thiếu thốn các nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống.

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đề cập đến chủ đề hy vọng vào năm 2019, khi viết thông điệp cho Ngày Thế giới Người Nghèo lần thứ ba với tựa đề: “Hy vọng của người nghèo sẽ không bao giờ thất vọng” (Tv 9:19). Thiên Chúa lắng nghe, can thiệp, bảo vệ, bênh vực, cứu chuộc, giải thoát, Ngài không quên tiếng kêu của người nghèo, những người có hy vọng bất chấp các hoàn cảnh của sự chết, bởi vì họ biết mình được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt và tình yêu này chiến thắng đau khổ và bị loại trừ. Người nghèo – Đức Giáo hoàng tiếp tục – là người “tin cậy vào Chúa”, vì họ chắc chắn sẽ không bao giờ bị bỏ rơi, họ là người của lòng tin cậy.

Thánh Vinh Sơn Phaolô đã tin chắc điều này khi ngài nói với các Nữ Tử Bác Ái rằng “hy vọng tạo nên lòng tin cậy… Chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta mọi ân sủng cần thiết để cứu rỗi chúng ta. Vì vậy, bất cứ ai không tin rằng Thiên Chúa chăm sóc ơn cứu độ của chúng ta bằng những cách mà sự Quan Phòng của Ngài xét thấy phù hợp cho chúng ta, thì xúc phạm đến Ngài. Không kiên định trong hy vọng và không tin rằng Ngài chăm sóc ơn cứu độ đời đời của chúng ta là một sự nghi ngờ làm Ngài không hài lòng. Hy vọng, do đó, hệ tại ở việc mong đợi từ lòng nhân lành thiêng liêng sự hoàn thành các lời hứa Ngài đã ban cho chúng ta. Khi đó, có sự tin cậy vào Sự Quan Phòng. Tin cậy và hy vọng gần như là một. Tin cậy vào Sự Quan Phòng có nghĩa là hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ chăm sóc những người phục vụ Ngài, như một chú rể chăm sóc cô dâu của mình và một người cha chăm sóc con trai mình. Thiên Chúa chăm sóc chúng ta theo cách tương tự, hay đúng hơn, nhiều hơn thế nữa” (SV X, 502-503).

Đôi Tay Cho Bánh Ăn

Bốn trăm năm thành lập Tu hội Truyền giáo, không chỉ đối với các anh em Vinh Sơn mà còn cho toàn thể Giáo Hội, là một cơ hội để tất cả các tín hữu khơi lại ý thức về việc trở thành dấu chỉ của hy vọng cho người nghèo. Vâng, đúng vậy! Tất cả chúng ta đều là một dấu chỉ hy vọng cho người nghèo. Tất cả chúng ta là một sự tiếp nối hành động của Thiên Chúa, chúng ta đều được mời gọi thực hiện “những hành động thiêng liêng.”

Tôi xin đề xuất với bạn một bức tranh sơn dầu. Đó là bức “Đôi tay cho bánh ăn” của họa sĩ người Bosnia, Safet Zec[1], người đã chạy trốn cuộc bao vây Sarajevo trong cuộc chiến tranh Balkan vào những năm 1990. Người họa sĩ đã khắc họa những cánh tay và bàn tay đang vươn ra một cách tuyệt vọng đến mức kiệt sức để cầu xin sự giúp đỡ, công lý, tự do và lòng thương xót. Chính quanh bánh mì mà chúng ta tái khám phá bản thân mình như những anh em, một nhân loại đang sống, cố gắng, hy vọng, và vui mừng.

Trong những bàn tay này, chúng ta chiêm ngắm những người nghèo đang tìm kiếm bánh mì… bánh mì của công lý, của lao động, của tình yêu. Chúng ta cũng chiêm ngắm đôi tay, cánh tay của chính mình, sự mệt mỏi của chúng cùng với mồ hôi trên trán, làm chứng cho tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa (x. SVit XI, 40).

Trong bánh mì, chúng ta cũng chiêm ngắm thành quả lao động của người nghèo: “Chúng ta sống từ gia sản của Chúa Giêsu Kitô và nhờ mồ hôi của người nghèo. Khi chúng ta đến nhà ăn, chúng ta phải luôn tự hỏi: ‘Tôi đã xứng đáng với thức ăn mà tôi sắp ăn chưa? Tôi thường bị ý nghĩ này giày vò và làm tôi bối rối: ‘Hỡi kẻ khốn nạn, ngươi đã xứng đáng với bánh mì ngươi đang ăn chưa? Bánh mì đó đến từ công sức của người nghèo! Nếu chúng ta không xứng đáng với nó như họ, thì ít nhất chúng ta hãy cầu nguyện cho nhu cầu của họ. Người nghèo nuôi sống chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện với Thiên Chúa cho họ, và đừng để một ngày nào trôi qua mà chúng ta không dâng họ lên Chúa, để Người ban cho họ ân sủng để sử dụng tốt những đau khổ của họ'” (SV XI, 201).

Có lẽ đã đến lúc cho một cuộc cách mạng văn hóa bắt đầu bằng việc chia sẻ những gì chúng ta đang có và những gì chúng ta sở hữu để mở ra một tình huynh đệ mới.

Lòng Thương Xót, Vòng Ôm Để Bắt Đầu Lại

Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Tông sắc công bố Năm Thánh 2025, đã nhắc lại một yếu tố quan trọng trong việc cử hành Năm Thánh: ân xá toàn phần cho phép chúng ta khám phá lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa. “Chính Bí tích Hòa Giải là một cơ hội tuyệt vời cho tất cả chúng ta để chữa lành tâm hồn, ôm lấy chính mình, đứng dậy và bắt đầu lại. Được tha thứ, chúng ta được mời gọi tha thứ, để những người khác cũng được trải nghiệm vòng ôm và bắt đầu lại.”

Lòng thương xót của Thiên Chúa là tin mừng tuyệt vời, là trái tim của sứ mạng Vinh Sơn. Dụ ngôn Người Samari nhân lành cho chúng ta thấy dầu (elaion) mà ông dùng để xức vết thương, theo một cách chơi chữ Hy Lạp, chứa đựng lòng trắc ẩn của Thiên Chúa (eleos). Trong người đàn ông bị rơi vào tay bọn cướp, tôi thấy người nông dân Gannes đã sa vào tội lỗi giam hãm mình, và trong Người Samari nhân lành, tôi thấy Thánh Vinh Sơn và tất cả các tín hữu đang đổ trên mỗi người nam và người nữ dầu an ủi và rượu hy vọng, qua sự chăm sóc và lòng thương xót.

Việc chuẩn bị cho Năm Thánh nên được thúc đẩy bởi ước muốn “tiến đến ngai ân sủng với lòng tin cậy trọn vẹn, để nhận được lòng thương xót và tìm thấy ân sủng và được giúp đỡ kịp thời trong lúc hoạn nạn” (Dt 4:16) để trải nghiệm sự dịu dàng của một vòng ôm.

Nguyện xin tình yêu và lòng thương xót trở thành nơi mỗi người một con đường dẫn từ trái tim đến đôi tay.

2. Đôi Tay Cầu Nguyện. Lời Cầu Nguyện Của Người Nghèo Bay Lên Thiên Chúa

Năm 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thiết lập Ngày Thế giới Người Nghèo, với ý định đây sẽ là tiếng đáp trả của toàn thể Giáo hội đối với người nghèo (nỗi đau, sự gạt ra bên lề xã hội, áp bức, bạo lực, tra tấn, tù đày và chiến tranh, sự tước đoạt tự do và phẩm giá, dốt nát và mù chữ, khủng hoảng sức khỏe và thiếu việc làm, buôn người và nô lệ, lưu vong và khốn cùng), để họ không nghĩ rằng tiếng kêu của mình rơi vào khoảng không vô vọng. Đây là các chủ đề của những Ngày Thế giới Người Nghèo đã qua:

  • Chúng ta hãy yêu thương, không phải bằng lời nói mà bằng hành động (2017)
  • Người nghèo này kêu lên và Chúa đã nghe ông (2018)
  • Hy vọng của người nghèo sẽ không bao giờ tàn phai (2019)
  • Hãy giơ tay ra với người nghèo (2020)
  • Người nghèo sẽ luôn ở với anh em (2021)
  • Vì anh em mà Đức Kitô đã trở nên nghèo khó (2022)
  • Đừng quay mặt đi trước bất cứ ai nghèo khó (2023)

Vào ngày 13 tháng 6 năm 2024, trong ngày lễ kính Thánh Antôn Padua, bổn mạng của người nghèo, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi đến toàn thể Giáo hội một sứ điệp tuyệt đẹp cho Ngày Thế giới Người Nghèo lần thứ VIII, với tựa đề: “Lời cầu nguyện của người nghèo bay lên Thiên Chúa” (Hc 21:5). Văn bản Kinh Thánh nhấn mạnh cách người nghèo có một vị trí ưu tiên trong trái tim Thiên Chúa, đến nỗi, trước những đau khổ của họ, Thiên Chúa “không thể chờ đợi” cho đến khi Ngài thực thi công lý cho họ. Không một ai, tuyệt đối không một ai, bị loại trừ khỏi trái tim Ngài!

Lắng Nghe Tiếng Kêu Của Người Nghèo

Ngày Thế giới Người Nghèo đã trở thành một sự kiện thường niên mời gọi mọi tín hữu và mọi cộng đoàn lắng nghe lời cầu nguyện của người nghèo, nhận thức được sự hiện diện và nhu cầu của họ. Lắng nghe người nghèo cũng có nghĩa là trở thành môn đệ của người nghèo; vâng, chúng ta có thể đến trường học của người nghèo! Trong một nền văn hóa đã đặt sự giàu có lên hàng đầu và thường xuyên hy sinh phẩm giá con người trên bàn thờ của cải vật chất, họ đi ngược dòng, nhấn mạnh rằng điều thiết yếu cho cuộc sống là một điều khác.

Trong sứ điệp của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta, trên con đường tiến đến Năm Thánh 2025, hãy quan tâm đến “những chi tiết nhỏ bé của tình yêu” trong sự trung tín hằng ngày: dừng lại, đến gần, dành một chút chú ý, một nụ cười, một cái vuốt ve, một lời an ủi.

Một khía cạnh mà theo tôi là rất quan trọng được đề cập trong số 5 của sứ điệp Đức Giáo hoàng: lời cầu nguyện. “Chúng ta cần biến lời cầu nguyện của người nghèo thành của chính mình và cùng cầu nguyện với họ. Đó là một thách thức mà chúng ta phải chấp nhận và một hành động mục vụ cần được nuôi dưỡng. Trên thực tế, sự phân biệt đối xử tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu đựng là sự thiếu vắng sự chăm sóc thiêng liêng. Đại đa số người nghèo có một sự cởi mở đặc biệt với đức tin; họ cần Thiên Chúa, và chúng ta không thể không trao cho họ tình bằng hữu của Ngài, phép lành của Ngài, Lời của Ngài, việc cử hành các Bí tích và đề xuất một con đường tăng trưởng và trưởng thành trong đức tin. Sự chọn lựa ưu tiên cho người nghèo phải được thể hiện chủ yếu thành một sự quan tâm tôn giáo đặc quyền và ưu tiên.”

Đôi Tay Cầu Nguyện

Bốn trăm năm thành lập Tu hội Truyền giáo, không chỉ đối với các Nhà truyền giáo Vinh Sơn, mà còn đối với toàn thể Giáo Hội và mọi tín hữu, là một lời mời gọi đến với lời cầu nguyện, để có đôi tay cầu nguyện.

Trong suy tư thứ hai này, tôi cũng xin đề xuất với bạn một bức tranh sơn dầu, bức “Người đàn ông cầu nguyện“, của họa sĩ người Bosnia Safet Zec, người đã chạy trốn cuộc bao vây Sarajevo trong cuộc chiến tranh Balkan vào những năm 1990.[2] Người họa sĩ khắc họa một người đàn ông mà, chính trong lời cầu nguyện, đã tìm thấy ánh sáng và hy vọng giữa bóng tối.

Hình ảnh này có thể đi kèm với biểu tượng Kinh Thánh về việc chữa lành người câm điếc (Mác-cô 7:32-37): “Đức Giêsu kéo riêng người ấy ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy, rồi nhổ nước bọt mà chạm vào lưỡi người ấy. Ngước mắt lên trời, Người thở dài và nói: “Ép-pha-tha!” nghĩa là: “Hãy mở ra!””

Văn bản Kinh Thánh cho thấy mối liên kết sâu sắc giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân cũng phải đi vào lời cầu nguyện của chúng ta. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa thật và người thật, sự quan tâm đến người khác, đặc biệt là khi họ đang cần và đau khổ, khiến Người hướng về Chúa Cha, trong mối quan hệ nền tảng dẫn dắt toàn bộ cuộc đời Người. Nhưng điều ngược lại cũng xảy ra: sự hiệp thông với Chúa Cha, cuộc đối thoại không ngừng với Người, thúc đẩy Đức Giêsu quan tâm một cách độc đáo đến những hoàn cảnh cụ thể của con người, để mang đến cho họ sự an ủi và tình yêu của Thiên Chúa. Mối quan hệ với con người dẫn chúng ta đến mối quan hệ với Thiên Chúa, và mối quan hệ với Thiên Chúa đưa chúng ta trở lại với tha nhân.

Vinh Sơn Phaolô, giữa Phục vụ và Cầu nguyện

Vinh Sơn, khi cảm động bởi sự gần gũi với người nghèo, đã nhìn họ bằng một cái nhìn thần học, tức là cái nhìn mà Thiên Chúa đã tỏ ra đối với dân Giao ước, những người bị giảm xuống tình trạng khốn khổ trong lịch sử cứu độ: cái nhìn thấu hiểu của tình yêu thương xót, điều đã được mạc khải rõ ràng trong cái nhìn mà Đức Giêsu đã âu yếm những tội nhân, những người bất hạnh và yếu đuối.

Người nghèo trở thành điểm nhạy cảm nhất trong lương tâm Vinh Sơn, nơi mà tinh thần của ngài rung động khi tiếp xúc với họ. Jean Calvet (một trong những người viết tiểu sử của ngài) viết: “Ngài cảm thấy và tin rằng thực sự, không phải ẩn dụ, người ăn xin, người rách rưới, là anh em của ngài. Nếu mỗi ngày ngài mời hai người nghèo từ đường phố ngồi vào bàn ăn của ngài và muốn tự mình phục vụ họ, đó là vì ngài thấy Đức Giêsu Kitô nơi họ, nhưng trước hết là vì ngài thấy anh em của ngài nơi họ. Và vì họ là những người anh em bất hạnh, ngài nghĩ rằng họ xứng đáng với cái nhìn đặc biệt này: ngài coi họ là ‘các ông chủ và thầy của ngài’.”[3]

Khi dịch một trong những lời khuyên của Thánh Vinh Sơn về người nghèo sang một ngôn ngữ khác, chúng ta lại có thể nghe thấy ngài trong những lời này: “Hãy nhìn những người nghèo, hãy nhìn kỹ họ. Họ thô ráp, biến dạng vì đau đớn và đói khát. Họ bẩn thỉu. Họ hầu như không còn hình dáng con người. Thế nhưng, hãy lật đồng xu lại và bạn sẽ thấy nơi họ hình ảnh của Con Thiên Chúa, Đấng trong cuộc khổ nạn trên thập giá đã mang lấy khuôn mặt biến dạng và bị hạ nhục ấy.”[4]

Đối với Thánh Vinh Sơn, mỗi người nghèo là một khuôn mặt đầy lịch sử. Một khuôn mặt cần được giải mã và yêu thương bằng sự dịu dàng và chân thành, nhận ra chính mầu nhiệm Thiên Chúa đã làm người và chia sẻ những đau khổ của con người.

Về vấn đề này, tôi xin nhắc lại một đoạn trích từ luật Các Bà Bác Ái của Montmirail, nơi Thánh Vinh Sơn giáo dục về việc phục vụ và cầu nguyện: “Khi vào nhà một người bệnh, chị em sẽ chào hỏi người ấy một cách tử tế, rồi, tiến đến giường với vẻ mặt khiêm tốn vui tươi, chị em sẽ mời người ấy ăn, sẽ sắp xếp gối, sẽ đắp chăn, sẽ đặt bàn nhỏ, khăn trải bàn, đĩa, thìa, sẽ rửa sạch bát, sẽ dọn súp, đặt thịt vào đĩa, cho người bệnh đọc kinh cầu xin ơn lành cho thức ăn và uống súp, cắt thịt thành miếng nhỏ, giúp người ấy ăn bằng cách nói những lời thánh thiện và vui tươi an ủi để khuyến khích người ấy, phục vụ đồ uống cho người ấy, mời người ấy ăn lại. Cuối cùng, khi người ấy đã dùng bữa xong, sau khi rửa chén đĩa và dao nĩa, chị em sẽ gấp khăn trải bàn và dọn bàn nhỏ đi, chị em sẽ giúp người bệnh đọc kinh tạ ơn và sau đó sẽ chào tạm biệt để đi phục vụ người khác”.[5]

Chúng ta đừng quên rằng người nghèo, con người, những “việc cần làm” đã không làm xao nhãng trái tim Vinh Sơn khỏi kinh nghiệm về Thiên Chúa, trong lời cầu nguyện của ngài: “Liên tục cầu nguyện, ngài không bị xao nhãng bởi việc chiêm niệm các mầu nhiệm thiêng liêng, hay bởi con người, hay bởi công việc, hay bởi những điều vui vẻ hay buồn bã: thực ra, ngài luôn có Thiên Chúa hiện diện trong tâm trí mình, và với nỗ lực lớn lao cùng những chiến lược thánh thiện, ngài đã thành công trong việc biến mọi thứ đập vào mắt mình đều gợi nhớ đến Đấng Tạo Hóa; thể hiện theo cách riêng của mình vinh quang Thiên Chúa và những lời ca ngợi thiêng liêng, chúng thúc đẩy ngài chiêm niệm vẻ đẹp thiên đàng. Đó là lý do tại sao ngài luôn khiêm tốn, hiền lành, dễ bảo và nhân từ, giữ được sự thanh thản tuyệt vời trong mọi việc: ngài không bị cao ngạo bởi những điều vui vẻ cũng không bị quấy rầy bởi nghịch cảnh, vì ngài có thể nói cùng ngôn sứ: ‘Con luôn có Thiên Chúa trước mắt con vì Ngài ở bên phải con để con không bị lay chuyển’.”[6]

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta khả năng cầu nguyện ngày càng mãnh liệt hơn, để củng cố mối quan hệ cá vị của chúng ta với Thiên Chúa Cha, để mở rộng trái tim chúng ta hướng về nhu cầu của những người xung quanh và để cảm nhận vẻ đẹp của việc là “anh em trong Con” (Lumen gentium, 62) nhằm xây dựng tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội (Fratelli tutti, 6).

3. Đôi tay vì hòa bình. Cho một trái tim không vũ trang

Vào Lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 8 tháng 12 năm 2024, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi đến toàn thể Giáo Hội một sứ điệp sâu sắc cho Ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 58, sẽ được cử hành vào ngày 1 tháng 1 năm 2025, với tựa đề “Xin Tha Nợ Chúng Con, Xin Ban Hòa Bình Cho Chúng Con.”

Chủ đề này cộng hưởng sâu sắc với ý nghĩa Kinh Thánh và Giáo hội của Năm Thánh, đặc biệt lấy cảm hứng từ các thông điệp Laudato Si’Fratelli tutti, đồng thời nhấn mạnh các khái niệm Hy vọngTha thứ, vốn là trọng tâm của Năm Thánh. Đây là lời mời gọi sám hối không phải để lên án mà để hòa giải và hòa bình.

Năm 2025, Giáo hội Công giáo cử hành Năm Thánh, một thời điểm để lấp đầy trái tim bằng hy vọng. Thay vì tiếng kèn truyền thống báo hiệu sự khởi đầu của Năm Hồng Ân, Đức Giáo hoàng mời gọi chúng ta lắng nghe “tiếng kêu cứu tuyệt vọng” đang vang lên từ nhiều nơi trên thế giới (x. St 4:10), một tiếng kêu mà Thiên Chúa không bao giờ không nghe thấy.

Đức Thánh Cha Phanxicô thúc giục chúng ta đối mặt với những điều kiện bất công và bất bình đẳng hiện tại thông qua thay đổi văn hóa và cơ cấu, nhận ra mình là con của cùng một Cha những con nợ của nhau và thiết yếu đối với nhau.

Trong kinh “Lạy Cha”, Chúa Giêsu để lại cho chúng ta lời cầu xin đầy thách thức: “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con,” sau khi xin Cha tha nợ cho chúng con (x. Mt 6:12). Để tha thứ nợ nần của người khác và ban cho họ hy vọng, cuộc đời chúng ta phải tràn đầy cùng một hy vọng tuôn chảy từ lòng thương xót của Thiên Chúa (số 10).

Đức Giáo hoàng vạch ra ba hành động cụ thể trên con đường hy vọng để khôi phục phẩm giá cho cuộc sống của toàn dân và hướng dẫn họ trở lại hòa bình:

  • Giảm hoặc xóa bỏ hoàn toàn nợ quốc tế.
  • Tôn trọng phẩm giá của sự sống con người, từ lúc thụ thai đến cái chết tự nhiên.
  • Thành lập một Quỹ Toàn cầu để vĩnh viễn xóa bỏ nạn đói.

Chỉ thông qua những biện pháp này, chúng ta mới có thể tiến gần hơn đến mục tiêu hòa bình. Sứ điệp kết thúc với ước nguyện này:

Nguyện xin năm 2025 là một năm hòa bình được lớn mạnh. Một nền hòa bình chân thật và lâu dài không bị giới hạn trong những kỹ thuật của các hợp đồng hay các cuộc đàm phán của con người. Chúng ta hãy tìm kiếm nền hòa bình đích thực mà Thiên Chúa ban cho một trái tim không vũ trang: một trái tim không khăng khăng tính toán cái gì là của tôi và cái gì là của bạn; một trái tim giải tán sự ích kỷ trong sự sẵn lòng gặp gỡ người khác; một trái tim không ngần ngại thừa nhận mình mắc nợ Thiên Chúa và, do đó, sẵn sàng tha thứ những món nợ đang đè nặng người khác; một trái tim vượt qua sự nản lòng về tương lai với niềm hy vọng rằng mỗi người là một nguồn lực cho thế giới này” (số 13).

Đôi Tay Vì Hòa Bình

Kỷ niệm 400 năm thành lập Tu hội Truyền giáo không chỉ là một lễ kỷ niệm đối với các Nhà truyền giáo Vinh Sơn mà còn là một lời mời gọi đến toàn thể Giáo Hội và mọi tín hữu hãy ôm lấy hòa bình, giải trừ vũ khí trong trái tim mình, và có đôi tay vì hòa bình.

Trong suy tư này, khi chúng ta tiến gần đến những lễ kỷ niệm lớn của bốn trăm năm thành lập Tu hội, tôi mời gọi bạn chiêm ngắm bức tranh Mẹ Bồng Con (2024) của họa sĩ người Bosnia Safet Zec, người đã chạy trốn Sarajevo trong Chiến tranh Balkan vào những năm 1990.[7]

Bức tranh khắc họa một người phụ nữ đang chạy trốn, bồng đứa con trên tay. Mái tóc màu nâu sẫm của bà được vẽ gần như vội vã, với những nét cọ cơ bản, trong khi ánh mắt cúi xuống của bà chăm chú quan sát đứa con nhỏ được bọc trong một tấm vải một cách đầy kịch tính. Màu sắc ít ỏi và cơ bản, phản ánh sự cấp bách của cuộc chạy trốn: màu đất sét của làn da và áo choàng người phụ nữ, màu trắng của quần áo và khăn bọc của đứa bé, và màu đỏ nhuộm trên cổ tay và quần áo của bà, thấm vào mặt đất. Chỉ có màu xanh của chiếc giày nhỏ của đứa bé, ló ra từ lớp khăn bọc, gợi lên sức sống và tinh thần vô tư mà mọi đứa trẻ nên có. Sự thiêng liêng của sự sống được tập trung trong đôi bàn tay lớn đang nâng niu thân thể nhỏ bé, được bọc kínđôi bàn tay bảo vệ đến hơi thở cuối cùng, đôi bàn tay rỉ máu vì một cuộc sống liên tục bị xâm phạm bởi sự tàn bạo của chiến tranh.

Chúng ta đã quá mệt mỏi với chiến tranh! Chúng ta cần hòa bình!

Hiện tại, có 56 cuộc xung đột đang diễn ra trên toàn thế giới – con số cao nhất được ghi nhận kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, theo Chỉ số Hòa bình Toàn cầu năm 2024.

Hòa bình là chân trời nơi nhân loại được mời gọi sống trong tình hiệp thông huynh đệ và mối quan hệ với Thiên Chúa và Sứ Giả của Ngài, “Hoàng Tử Hòa Bình” (Is 9:5). Đó là sứ điệp trung tâm của niềm hy vọng thiên sai được các ngôn sứ công bố, những người đã hình dung sự hoàn thành của nó trong sự hài hòa nguyên thủy giữa nhân loại và tạo vật:

Chó sói sẽ ở với chiên con… bê con và sư tử sẽ cùng nhau gặm cỏ, và một đứa trẻ nhỏ sẽ dẫn dắt chúng” (Is 11:6-9; x. Is 65:25).

Điều này cũng được phản ánh qua việc biến đổi các công cụ chiến tranh thành công cụ tiến bộ và chung sống hòa bình:

Họ sẽ rèn gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác thành liềm thành hái… Họ sẽ không học cách gây chiến nữa” (Is 2:4).

Tất cả những điều này được hoàn thành với sự xuất hiện của Đức Giêsu Nadarét, Đấng mà sự ra đời của Người đánh dấu buổi bình minh và chiến thắng của hòa bình: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14).

Chúng Ta Khát Khao Hòa Bình Sinh Ra Từ Sự Tha Thứ

Chúng ta hãy nhớ rằng “lòng thương xót là lời tóm tắt của Tin Mừng; chúng ta có thể nói đó là ‘dung mạo’ của Đức Kitô, dung mạo mà Người đã tỏ ra khi gặp gỡ mọi người, chữa lành người bệnh, dùng bữa với tội nhân, và, trên hết, tha thứ từ thập giá: ở đó chúng ta thấy dung mạo của lòng thương xót thiêng liêng.”

Điều cốt yếu là chúng ta phải tái khám phá chính mình như những người đã được Thiên Chúa tha thứ trong Đức Kitô, vì điều này biến đổi hành động tha thứ: nó không còn đơn thuần là một nỗ lực của ý chí mà là một sự mở lòng đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.

Chúng ta khát khao một nền hòa bình không chỉ là sự im lặng của vũ khí mà còn là sự hòa hợp sâu sắc được hiện thực hóa nơi mỗi cá nhân, trong các mối quan hệ và các nhóm xã hội khi họ tuân theo các luật lệ của Sự Sống và duy trì sự hòa điệu với hành động của Thiên Chúa.

Hòa bình không thể chỉ được ước ao – nó phải được công bố, xây dựng và sống.

Vinh Sơn Phaolô: Sứ Giả Với “Đôi Chân Đẹp”

Đẹp thay trên núi non, bước chân của người loan báo hòa bình!” (Is 52:7).

Tôi muốn hình dung Thánh Vinh Sơn Phaolô là một người đàn ông có “đôi chân đẹp,” bước những bước chân vững vàng. Đôi chân của ngài, mòn mỏi vì những chuyến đi và có lẽ đau nhức, lại là công cụ giúp ngài loan báo hòa bình. Vì điều này, chúng thật đẹp và quý giá. Nhờ chúng, khát vọng hòa bình và giải phóng được thực hiện và mang lại niềm vui.

Vì vậy: đẹp thay đôi chân của Vinh Sơn đã đến bên giường của những người hấp hối ở Folleville; đẹp thay đôi chân của Vinh Sơn đã đến nhà của gia đình túng thiếu ở Châtillon; đẹp thay đôi chân của Vinh Sơn đã thăm viếng các tù nhân ở Paris; đẹp thay đôi chân của Vinh Sơn đã đến gặp Hồng y Richelieu và nói: “Xin ban bình an cho chúng con, xin thương xót chúng con, xin ban bình an cho đất nước chúng con”; đẹp thay đôi chân của Vinh Sơn đã chăm sóc những đứa trẻ bị bỏ rơi; đẹp thay đôi chân của Vinh Sơn trên những nẻo đường truyền giáo và bác ái; đẹp thay đôi chân của ngài!

Vinh Sơn, một sứ giả hòa bình, luôn tìm cách xoa dịu những bất hòa cá nhân và xung đột gia đình; ngài đã nỗ lực làm dịu các tranh chấp giữa các giáo sĩ và những người lạc giáo; trong các xung đột xã hội, ngài bảo vệ công lý chống lại mọi sự lạm dụng và luôn lên án việc sử dụng bạo lực; ngài đã sống Tin Mừng bác ái bắt đầu từ “đôi chân,” tức là như một người du mục và lữ khách ở Pháp thế kỷ 17, và tiếp tục đến ngày nay qua “đôi chân” của chúng ta trên khắp thế giới.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng để trở thành những nghệ nhân kiến tạo hòa bình, sẵn sàng khởi xướng các tiến trình chữa lành và hòa giải với sự sáng tạo và lòng dũng cảm (Fratelli tutti, 225).

Chuyển ngữ và biên tập: Ban truyền thông

 

Tài liệu tham khảo

Bull of canonization of St. Vincent de Paul, June 16, 1737.

Calvet, J. 1938. La littérature religeuse de François de Sales àFénélon, Paris 1938.

de Paoli, Vincenzo. (1978). Opera Ominia, X –XI

Francesco. 2022. Lettera del Santo Padre al Presidente del Pontificio Consiglio per la Promozione della Nuova Evangelizzazione per il Giubileo 2025, 11 febbraio 2022.

Francesco. 2024. Spes non confundit, Bolla di indizione del Giubileo Ordinario dell’anno 2025, 9 maggio 2024.

Francesco. 2024.La preghiera del povero sale fino a Dio(cfr Siracide 21,5). VIII giornata mondiale dei poveri, 13 giugno 2024.

Francesco. 2024. Rimetti a noi i nostri debiti, concedici la tua pace. LVIII giornata mondiale della pace, 8 dicembre 2024.

[1] https://images.app.goo.gl/QRNiLXTJPFcw

[2] https://images.app.goo.gl/znhfucEjR9MEq

[3] J. Calvet, La littérature religeuse de François de Sales àFénélon, Paris 1938, p. 124.

[4] Cf SV X, 26.

[5] SV XI, 475.

[6] Bull of canonization of St. Vincent de Paul, June 16, 1737.

[7] https://images.app.goo.gl/LMJzoNLGPspEXKnG9