Lời Kinh Salve Regina, Niềm Hy Vọng Trong Cuộc Đời Thánh Vinh Sơn Phaolô

Đăng ngày: 22/07/2025
Danh mục: 2. CHIA SẺ

Giáo hội đang bước đi trong Năm Thánh Hy Vọng, một hành trình đức tin của người Kitô hữu. Khi Đức Giáo hoàng Phanxicô viết Sắc Chỉ công bố Năm Thánh Thường Lệ 2025 – Spes non confundit –‘hy vọng không làm thất vọng’ (Rm 5,5), ngài đã đưa ra những dấu chỉ của niềm hy vọng Kitô giáo, trong đó, vào cuối sắc chỉ, ngài đã nhấn mạnh một điều rằng “chứng tá hùng hồn nhất của niềm hy vọng là Mẹ Thiên Chúa,” và rồi Đức Giáo hoàng nói tiếp, “tôi chắc chắn rằng tất cả mọi người, nhất là những người đau khổ và phiền muộn, sẽ cảm nghiệm được sự gần gũi của Mẹ Maria, người Mẹ trìu mến nhất trong các người mẹ. Mẹ không bao giờ bỏ rơi con cái mình, Mẹ là “dấu chỉ của niềm hy vọng chắc chắn và niềm an ủi” cho Dân thánh của Thiên Chúa.”[1]

Trong cuộc đời của Thánh Vinh Sơn Phaolô, ngài đã phải trải qua một giai đoạn của đêm tối đức tin. Ngài cảm thấy khủng hoảng và xao xuyến về đời sống đức tin của mình, đến nỗi, ngài đã phải ghi bản kinh Tin Kính và đeo lên cổ của mình, để khỏi bị mất đức tin. Nhưng trước đó, ngài cũng đã phải trải qua một giai đoạn khủng hoảng khác trong đời sống đức tin, và nó cũng không kém phần đau đớn cho ngài.

Đó là quãng thời gian ngài bị lưu lạc và bị bán đi như người nô lệ ở Tunis. Theo bức thư ngày 24 tháng 7 năm 1607 mà cha Vinh Sơn gửi cho Monsieur De Comet,[2] quân Thổ Nhĩ Kỳ đã tấn công con tàu mà cha Vinh Sơn đang đi, khi nó đến gần cửa sông Rodano. Tất cả hành khách đều bị đưa đến Tunis, nơi họ bị bán làm nô lệ: “khi họ bắt chúng tôi đi năm sáu vòng quanh thành phố với một sợi xích quanh cổ… các thương gia đến xem xét chúng tôi, như người ta vẫn làm khi mua ngựa hay bò. Họ bắt chúng tôi há miệng để xem răng; sờ xương sườn; kiểm tra vết thương; bắt chúng tôi đi bộ, chạy ráng sức; rồi mang vác và vật lộn để đánh giá sức mạnh của từng người; và hàng ngàn kiểu hành hạ khác.”[3]

Sau đó, cha Vinh Sơn được một ngư dân mua về, nhưng hai tháng sau đã bán lại cho một ông già, “một lương y người Spagirite, một bậc thầy trong thuật giả kim, nhưng lại là một người đàn ông rất nhân từ và dễ mến.”[4]  Vị lương y này luôn đối xử với nô lệ của mình với lòng nhân đạo nhất. Hàng trăm lần ông đề nghị chia sẻ tài sản và tất cả kiến thức của mình với điều kiện là Vinh Sơn phải từ bỏ Phúc Âm và gia nhập đạo Hồi của ông. Nhưng “vị linh mục đáng kính của Chúa Giêsu Kitô này thà mang xiềng xích còn hơn được giải thoát với cái giá như vậy. Vinh Sơn cầu nguyện nhiều hơn: ngài cố gắng nhân đôi lòng sùng kính dịu dàng mà ngài đã có từ thuở nhỏ đối với Đức Trinh Nữ Maria, để cầu xin sự trợ giúp vượt qua cám dỗ này …Vinh Sơn không tin rằng mình sẽ chết nơi đất khách quê người.[5] Sở dĩ cha Vinh Sơn bị người ngư dân bán đi sớm, là vì Vinh Sơn bị người chủ này bắt đi biển với ông, mà Vinh Sơn thì không rành và không quen nghề ngư dân, nên thường hay bị ốm và làm việc không hiệu quả.

Khi người lương y này qua đời, cháu trai của ông đã nhận được Vinh Sơn như một phần thừa kế, nhưng vì một lý do chính trị, anh ta đã giải thoát cho Vinh Sơn. Nhưng rồi không may cho Vinh Sơn, ngài đã bị bán cho một kẻ phản bội, người gốc Nice ở Provence.[6] Vị chủ nhân thứ tư này đã đưa vị thánh của chúng ta vào trang trại của mình, tức là nơi ngài canh tác với tư cách là một nông dân. Vinh Sơn ở đó bận rộn với việc cày cấy đất đai; bị đày đến nơi khô cằn và hoang vắng đó, dường như tự nhiên là ngài đã mất cả hy vọng tìm lại tự do.

Ông chủ thứ tư này có ba người vợ, một trong số đó theo đạo Hồi. Bản thân bà cũng rất sùng đạo, cầu nguyện với Allah năm lần một ngày. Nhìn Vinh Sơn lao động dưới cái nắng gay gắt, lòng bà trào dâng sự thương cảm. Bà âm thầm đau buồn trước cảnh tù đày và điều kiện sống của ngài. Bà nhận ra rằng Vinh Sơn là một người tốt bụng và thánh thiện, và vô cùng ấn tượng trước sự bình yên của ngài, điều mà chồng bà không có. Bà không khỏi kinh ngạc trước sức mạnh của Vinh sơn, trước sự chấp nhận cuộc sống của ngài.

Bà thấy mình bị thu hút bởi phong thái thánh thiện của Vinh Sơn, đặc biệt, khi bà lắng nghe Vinh Sơn hát các Thánh vịnh, đặc biệt Thánh vịnh 137 “trên bờ sông Ba-by-lon”, vì Vinh Sơn cảm nghiệm được sự cô đơn, tủi nhục của mình khi bị bắt làm nô lệ, giống như những người Israel bị lưu đày ở Ba-by-lon; Vinh Sơn còn đặc biệt hát kinh Salve Regina và kinh phụng vụ, khi ngài đang phải đi làm việc trên nông trại của người chủ thứ tư này. Bà vợ người Hồi giáo này đã nhờ cha Vinh Sơn dịch các bài thánh ca, đặc biệt là kinh Salve Regina. Cha Vinh Sơn, với tất cả lòng nhiệt thành mà ngài đã tích lũy được, bắt đầu dạy bà về Chúa Giêsu và đức tin Công giáo. Người phụ nữ này đã nhìn vào đôi mắt đẫm lệ của Vinh Sơn mỗi khi ngài hát kinh Salve Regina và Thánh vịnh hay khi ngài nói về Chúa của mình, Đấng đã đến thế gian để cứu rỗi tất cả mọi người, và bà đã có thể cảm nhận được tất cả tình yêu mà Vinh Sơn dành cho Thiên Chúa của mình.[7]

Một đêm nọ, bà hào hứng kể lại cho chồng mình nghe tất cả những gì Vinh Sơn đã dạy bà. Sau đó, bà bắt đầu mắng chồng vì đã rời bỏ tôn giáo của mình, nói rằng, bà không thể hiểu được làm sao ông có thể phủ nhận một Thiên Chúa nhân từ như vậy và từ bỏ một tôn giáo tuyệt đẹp dạy về tình yêu và lòng trắc ẩn.[8] Hay trong một giai thoại khác thì nói rằng, sau khi nghe Vinh Sơn hát kinh Salve Regina, sau đó, bà trở về nhà trong im lặng và trầm ngâm. Tối hôm đó, bà nói chuyện với chồng. ‘“Em không hiểu nổi,’ bà nói, ‘tại sao anh lại từ bỏ một tôn giáo tốt đẹp và thánh thiện đến vậy. Người nô lệ Kitô giáo của anh đã kể cho em nghe về đức tin và Chúa của anh, và đã hát những bài ca ngợi Ngài. Lòng em tràn ngập niềm vui khi người ấy hát, đến nỗi em không tin mình sẽ hạnh phúc đến thế ngay cả ở thiên đường của cha mẹ mình.’ Chồng bà, với lương tâm vẫn chưa hoàn toàn chết lặng, đã im lặng lắng nghe và bối rối. À, bà nói tiếp, ‘có điều gì đó thật tuyệt vời trong tôn giáo đó!’”[9]

Sáng hôm sau, người chồng của bà, cũng là ông chủ của Vinh Sơn tìm đến với ngài; ông quỳ xuống, thú nhận mọi tội lỗi và nói với Vinh Sơn rằng, ông muốn quay về với đức tin. Cha Vinh Sơn đã thuyết phục ông ta ăn năn về sự bội giáo của mình. Vinh Sơn nói cách duy nhất để đạt được bình an là trở về Pháp, vài tháng sau, hai người, dưới sự che chở của màn đêm, bí mật trốn thoát sang Pháp, cập bến Marseille và cuối cùng đến Avignon vào khoảng 1606.[10]

Qua câu chuyện này, chúng ta nhận thấy, một trong những người vợ của ông chủ và là người Hồi giáo, đã say mê và bị cuốn hút bởi lời kinh Salve Regina mà Vinh Sơn hát mỗi ngày trong khi cầu nguyện, cũng như trong khi lao động. Lời kinh này có lẽ là niềm an ủi rất lớn trong tâm hồn Vinh Sơn, khi phải sống trong một môi trường không có các thực hành tôn giáo, hay nói rõ hơn, là khi không thể thi hành chức linh mục của mình khi bị lưu đày cách oan ức. Vì tới lúc này Thánh Vinh Sơn đã chịu chức được 5-6 năm. Thánh Vinh Sơn đã có một lòng yêu mến Đức Mẹ và quyết tâm sống tâm tình gắn kết với Đức Mẹ qua lời kinh Salve Regina mà cha hát mỗi ngày. Lời kinh Salve Regina và một số bài thánh ca, thánh vịnh khác đã giúp ngài duy trì một đức tin sống động. Như chúng ta đã biết, ngài không chỉ có thể giữ vững đức tin của mình, mà còn có thể giúp chủ nhân của mình lấy lại đức tin và hoán cải.

Kinh Salve Regina là một thánh thi cổ kính của Giáo hội dành tôn kính Đức Maria, hay quen gọi kinh “Lạy Nữ Vương”. Kinh Salve Regina theo truyền thống được hát trong giờ Kinh Tối từ Thứ Bảy trước Chúa Nhật Ba Ngôi cho đến Thứ Sáu trước Chúa Nhật đầu tiên Mùa Vọng.[11] Kinh Lạy Nữ Vương cũng là lời cầu nguyện cuối cùng của Kinh Mân Côi. Còn về bản phổ nhạc, thì được cho là của John Dunstable (1390–1453), khi ông viết nhạc vào năm 1420.[12]

Về tác giả của lời kinh xinh đẹp này, hai khả năng thường được đưa ra—đó là Thánh Bernard thành Clairvaux (1090–1153) và Chân phước Hermann thành Reichenau (còn được gọi là Hermannus Contractus) (1013–1034). Cả hai tác giả này đều là tu sĩ, và đều viết những tác phẩm khác thể hiện lòng sùng kính chân thành và cảm động tương tự đối với Mẹ Thiên Chúa.[13]

Từ thế kỷ XIII, các ca vãn mừng kính Đức Mẹ đã được hát vào cuối Kinh Tối, giờ Kinh Phụng Vụ cuối cùng trong ngày. Thánh Phêrô Canisius (mất năm 1597) đã ghi nhận rằng, người ta ngợi khen Thiên Chúa trong Đức Mẹ khi hướng về Mẹ bằng lời ca. Về mặt phụng vụ, Salve Regina là bài thánh ca Đức Mẹ nổi tiếng nhất trong bốn bài thánh ca được quy định đọc sau Kinh Tối, và trong một số trường hợp, sau Kinh Sáng hoặc các Giờ Kinh khác. Việc sử dụng bài thánh ca này sau Kinh Tối có thể bắt nguồn từ việc các đan sĩ thường ngâm bài thánh ca này trong nhà nguyện và hát thánh ca trên đường về phòng ngủ.[14]

Bài thánh ca này được đặt tại Tu viện Cluny vào thế kỷ 12, nơi nó được dùng làm thánh ca rước kiệu trong các lễ kính Đức Mẹ. Các tu sĩ Xitô đã hát bài Salve Regina hàng ngày từ năm 1218. Bài thánh ca này phổ biến tại các trường đại học thời trung cổ như một bài thánh ca buổi tối, và theo Cha Juniper Carol, nó đã trở thành một phần của nghi thức làm phép cho một con tàu. Mặc dù bài thánh ca này chủ yếu xuất hiện trong phụng vụ và trong lòng sùng kính Công giáo nói chung, nhưng nó đặc biệt được các thủy thủ yêu thích.[15]

Vào thế kỷ 18, kinh Salve Regina được dùng làm đề cương cho cuốn sách Thánh Mẫu học Công giáo La Mã kinh điển “Vinh quang của Đức Maria”[16] của Thánh Alphonsô Liguori. Trong phần đầu của cuốn sách, ngài đã thảo luận về kinh Salve Regina và giải thích cách Thiên Chúa ban Đức Maria cho nhân loại như ‘Cổng Thiên Đàng.’ Trong cuốn sách này của mình khi nói về tình yêu của Đức Maria, Thánh Alphonsô đã trích dẫn về gương Thánh Stanlislaus Kostka về tình yêu của thánh nhân dành cho Đức Mẹ. Thánh Alphonsô diễn tả rằng “Khi hát bài Salve Regina, toàn bộ khuôn mặt của Kostla bừng sáng tình yêu. Một ngày nọ, một linh mục Dòng Tên hỏi ngài rằng ngài yêu mến Đức Maria đến mức nào. ‘Thưa Cha, Mẹ là mẹ của con. Con còn biết nói gì hơn nữa?’ Vị linh mục nói rằng những lời đó được thốt ra với sự dịu dàng đến nỗi dường như một thiên thần đang nói.”[17] Và tiếp tục trong phần bàn luận về Đức Mẹ của tập sách này, Thánh Alphongsô đã lập đi lập lại rất nhiều lần rằng, Đức Mẹ là niềm hy vọng của chúng ta, của các tội nhân, của những ai đang đau khổ …

Thánh Vinh Sơn Phaolô đã vượt qua nỗi cô đơn, tủi nhục và tha hương của mình nhờ đời sống cầu nguyện, đặc biệt cầu nguyện bằng kinh Salve Regina. Điều này không những mang đến cho ngài niềm hy vọng vào cuộc sống trong lúc đen tối, mà qua lời kinh đó, ngài còn giúp hoán cải được người khác. Trong Năm Thánh Hy Vọng này của Giáo hội và năm thánh của Tu Hội Truyền Giáo, biến cố lịch sử này nhắc nhớ về việc sống niềm hy vọng của thánh Vinh Sơn trong cuộc đời của ngài. Đặc biệt là sống niềm hy vọng qua sự an ủi của Đức Mẹ, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói trong sắc chỉ mở Năm Thánh của Giáo hội “trong những thăng trầm giông bão của cuộc đời, Mẹ Thiên Chúa đến trợ giúp chúng ta, nâng đỡ chúng ta và mời gọi chúng ta tin tưởng và tiếp tục hy vọng.”[18]

Ngày nay trong các nhà hay các cộng đoàn Vinh Sơn vẫn đang giữ truyền thống tốt đẹp của việc hát kinh Salve Regina trong phần ca vãn Đức Mẹ trong các giờ kinh tối, đặc biệt các ngày thứ bảy, hay các ngày lễ kính Đức Mẹ và lễ trọng, cũng như một số các buổi họp khác. Điều này diễn tả một tâm tình rất sâu sắc về lòng sùng kính Đức Mẹ và cũng là để theo gương của Thánh Vinh Sơn, Đấng sáng lập Tu hội, người mà đã yêu lời kinh này quá đỗi!

 

Bản văn Latinh và tiếng Việt của kinh Salve Regina[19]

Bản Latinh

Salve, Regina, Mater misericordiae,

vita, dulcedo, et spes nostra, salve.

ad te clamamus exsules filii Evae,

ad te suspiramus, gementes et flentes

in hac lacrimarum valle.

Eia, ergo, advocata nostra, illos tuos

misericordes oculos ad nos converte;

et Jesum, benedictum fructum ventris tui,

nobis post hoc exsilium ostende.

O clemens, O pia, O dulcis Virgo Maria.”

Bản Tiếng Việt (ca vãn kính Đức Mẹ – Kinh Tối)

Kính chào Đức Nữ Vương,

Bà là Mẹ xót thương,

Ngọt ngào cho cuộc sống,

Kính chào lẽ Cậy Trông.

Này con cháu E-và,

Thân phận người lưu lạc,

Chúng con ngửa trông Bà,

Kêu Bà mà khóc lóc,

Than thở với rên la

Trong lũng đầy nước mắt.

Bà là Nữ Trạng Sư,

Nguyện đưa mắt nhân từ

Phía đoàn con ngoái lại,

Và sau đời khổ ải,

Xin Bà khứng tỏ ra,

Cho đoàn con được thấy

Quả phúc bởi lòng Bà:

Đức Giê-su khả ái.

Ôi lượng cả khoan hồng,

Ôi tấm lòng xót thương,

Ôi dịu hiền nhân hậu,

Trinh Nữ Ma-ri-a.

Bản phổ thông

Lạy Nữ Vương Mẹ nhân lành

làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy.

Thân lạy Mẹ, chúng con, con cháu E-và

ở chốn khách đầy, kêu đến cùng Bà;

Chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khấn Bà thương.

Hỡi ôi! Bà là Chủ bầu chúng con, xin ghé mặt thương xem chúng con.

Đến sau khỏi đày, xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Giêsu,

Con lòng Bà gồm phúc lạ.

Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.

Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM

[1] Xem Phanxicô, “Spes non Confundit-Sắc Chỉ Công Bố Năm Thánh Thường Lệ 2025,” số 24. Tại https://www.vatican.va/content/francesco/vi/bulls/documents/20240509_spes-non-confundit_bolla-giubileo2025.html  (cập nhật 19/ 07/2025).  

[2] CCD I, 1-11; có một lá thư khác được tìm thấy trong CCD I,11-15. CCD là viết tắt của tập sách: Saint Vincent de Paul, Correspondence, Conferences, Documents. Edited by Pierre Coste (New York: New city press, 1985), bản tiếng Anh gồm 14 cuốn.

[3]  CCD I, 4-5.

[4] CCD I, 5. Cũng xem thêm Pierre Collet, “Life of St. Vincent de Paul, founder of the Congregation of the Mission and of the Sisters of Charity (01),” Vincentians 2014, https://vincentians.com/en/life-of-st-vincent-de-paul-founder-of-the-congregation-of-the-mission-and-of-the-sisters-of-charity-01/. Và Bob and Penny Lord’s Ministry, “Saint Vincent de Paul, Apostle of the Poor” (2021), https://bobandpennylord.wordpress.com/2019/05/23/the-life-of-saint-vincent-de-paul/ (cập nhật 19/07/2025).

[5] Ibid.

[6] Xem Pierre Collet, “Life of St. Vincent de Paul, founder of the Congregation of the Mission and of the Sisters of Charity (01),” Vincentians 2014, https://vincentians.com/en/life-of-st-vincent-de-paul-founder-of-the-congregation-of-the-mission-and-of-the-sisters-of-charity-01/ (cập nhật 19/07/2025).

[7] Xem Ibid.

[8] Xem Ibid.

[9] F.A. Forbes, “Life of Saint vincent depaul, chapter Slavery,” tại https://www.heritage-history.com/index.php?c=read&author=forbes&book=vincent&story=slavery (cập nhật 19/07/2025).

[10] Theo cha Roman nhận xét, sau khi phân tích các lập luận ủng hộ và phản đối tính lịch sử của những sự kiện này, ông tuyên bố: miễn là chúng ta không có bằng chứng cho thấy Vinh Sơn đã ở một nơi nào khác của Pháp, hoặc ở một nơi nào đó ở nước ngoài, trong khoảng thời gian từ năm 1605 đến năm 1607, chúng ta phải chấp nhận tuyên bố của Vinh Sơn rằng, ngài là tù nhân ở Tunis vào thời điểm đó. Xem José María Román, St. Vincent de Paul: A Biography  (London: Melisende, 1999,) 83. Và Pierre Collet, “Life of St. Vincent de Paul, founder of the Congregation of the Mission and of the Sisters of Charity (01),” Vincentians 2014, https://vincentians.com/en/life-of-st-vincent-de-paul-founder-of-the-congregation-of-the-mission-and-of-the-sisters-of-charity-01 (cập nhật 19/07/2025).

[11] Xem New Advent, “Salve Regina,” https://www.newadvent.org/cathen/13409a.htm (cập nhật 19/07/2025).

[12] Xem   John Dunstable,  tại  https://www.historyofcreativity.com/cid42/john-dunstable (cập nhật 19/07/2025). Trong số các tác phẩm được cho là của ông, chỉ còn khoảng năm mươi tác phẩm còn sót lại, trong số đó thánh ca nổi tiếng Veni creatorAlbanus roseo rutilat ít được biết đến hơn, cũng như hai mươi bảy bản nhạc riêng biệt của các bản văn phụng vụ khác nhau, bao gồm ba bài Magnificat và bảy bản nhạc điệp ca Đức Mẹ, chẳng hạn như Alma redemptoris Mater Salve Regina, Mater misericordiae (Ibid).

[13] Xem Robert Nixon, “The Author of the Salve Regina: the Stories of the Two Great Lovers of Mary,” tại https://tandirection.com/pursuit-of-perfection/the-author-of-the-salve-regina-the-stories-of-two-great-lovers-of-mary/ (cập nhật 19/07/2025).  

[14] xem ……….. “Salve Regina,” tại https://www.historyofcreativity.com/wid332/salve-regina (cập nhật 19/07/2025).

[15] xem Ibid.  

[16] Xem Alphonsus Ligouri, “The Glories of Mary,” tại  https://maryourhelp.org/e-books/marian-ebooks/glories_of_mary.pdf (cập nhật 19/07/2025).

[17] Ibid.

[18]  Xem Phanxicô,  “Spes non Confundit- Sắc Chỉ Công Bố Năm Thánh Thường Lệ 2025,” số 24, tại https://www.vatican.va/content/francesco/vi/bulls/documents/20240509_spes-non-confundit_bolla-giubileo2025.html  (cập nhật 19/ 07/2025).  

[19] Bản văn Latinh và tiếng Việt được lấy lại từ Lm Nguyễn Ngọc Long, “Lời kinh ‘Salve Regina’ – Lạy Nữ Vương’”, (19/08/2016) tại  https://tgpsaigon.net/bai-viet/loi-kinh-salve-regina-lay-nu-vuong-50428 (cập nhật 19/07/2025).